Trang chủ    Ảnh chính    Quan hệ giữa “ba trụ cột” phát triển của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Thứ năm, 20 Tháng 4 2023 12:53
2337 Lượt xem

Quan hệ giữa “ba trụ cột” phát triển của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam

(LLCT) - Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhằm đạt được mục tiêu này, Đảng ta xác định phải tập trung xây dựng “ba trụ cột” cơ bản: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. “Ba trụ cột” này có mối quan hệ hữu cơ, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện, động lực thúc đẩy nhau cùng phát triển. Bài viết phân tích về mối quan hệ giữa ba trụ cột này.

Thủ đô Hà Nội - Ảnh: vietnamnet.vn

1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở, điều kiện để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là cơ sở, điều kiện, đồng thời đặt ra yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

KTTT là thành quả phát triển của nhân loại. Sự xuất hiện và phát triển ngày càng mạnh mẽ của KTTT đã đặt ra những yêu cầu mới cho việc tổ chức, quản lý, vận hành nền kinh tế vốn rất phức tạp và nhiều khó khăn. Sự thăng trầm của quá trình phát triển nền KTTT trên thế giới đã chứng minh, KTTT chỉ phát huy hiệu quả từ khi có sự xuất hiện nhà nước pháp quyền.

Ở Việt Nam, quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta về xây dựng CNXH cũng là quá trình xây dựng nhận thức mới, đúng đắn về KTTT và vai trò của nó trong quá trình xây dựng CNXH. Từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản theo định hướng XHCN là bước chuyển quan trọng đầu tiên trong tư duy kinh tế của Đảng.

Từ Đại hội IX (năm 2001) đến nay, Đảng ta đã khẳng định KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””(1). Nền kinh tế đó đòi hỏi sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh với khả năng tự quản, tính tổ chức và có ý thức tự chủ cao.

Để giải quyết được bài toán phức tạp và khó khăn của nền KTTT định hướng XHCN chưa có trong tiền lệ lịch sử dân tộc, Đảng đã nhận thức là phải có sự đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước. Nhà nước không còn là người bảo trợ, bao cấp cho nền kinh tế mà là người tạo ra điều kiện, môi trường định hướng cho nền kinh tế đó phát triển. Cụ thể hơn, Nhà nước phải quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật, xây dựng thể chế KTTT đủ mạnh, tạo hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm công bằng, bình đẳng, hợp tác cùng phát triển lâu dài giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế... Nghĩa là, phải xây dựng được một cơ chế quản lý hiện đại, chuyên nghiệp và gọn nhẹ; bộ máy nhà nước trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực và tận tâm. Chỉ có nhà nước pháp quyền XHCN với những nội hàm như trên mới đủ điều kiện và khả năng quản lý, điều hành nền KTTT, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của đất nước theo đúng định hướng XHCN.

Như vậy, KTTT định hướng XHCN đòi hỏi và tạo cơ sở kinh tế - xã hội cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đặt ra những yêu cầu mới đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Những thay đổi về kinh tế đã dẫn đến những thay đổi có chủ đích của các bộ phận trong kiến trúc thượng tầng, nhằm thích ứng và đáp ứng những thay đổi trong cơ sở hạ tầng và kết cấu kinh tế - xã hội.

Việc ra đời và phát triển của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là một tất yếu trong tiến trình đổi mới khi mô hình KTTT định hướng XHCN đã hình thành và ngày càng phát huy tác dụng của nó trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.

Thứ hai, KTTT định hướng XHCN là cơ sở, điều kiện bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân

Dân chủ XHCN ở Việt Nam là nền dân chủ mà quyền lực thật sự thuộc về nhân dân, “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Muốn thực hiện được điều này, phải có các điều kiện cơ bản, trong đó kinh tế phải là KTTT định hướng XHCN. Bởi vì: bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu của tất cả mọi người và quyền tự do sản xuất kinh doanh; chống độc quyền, dỡ bỏ rào cản và những phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.

Tính dân chủ, bình đẳng này đã tạo ra động lực vật chất, kinh tế thúc đẩy các chủ thể kinh tế khai thác và phát huy mọi tiềm năng phát triển kinh tế của cá nhân. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thừa nhận, tôn trọng nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức phân phối chính là thừa nhận và tôn trọng tính đa dạng về lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, các tập đoàn, nhóm và cá nhân người lao động trong xã hội.

Theo đó, nền KTTT này dần làm cho quyền tự do, tự chủ trong sản xuất kinh doanh của cá nhân, tập thể lao động, các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp được thực hiện ngày càng tốt hơn. Các chủ thể kinh tế được giải phóng khỏi sự ràng buộc của các cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, trong hội nhập kinh tế quốc tế. Người dân có điều kiện tạo việc làm, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, lựa chọn cơ hội học tập, lập nghiệp, tạo ra động lực to lớn để mọi người sáng tạo và phát triển kinh tế vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành những người sản xuất kinh doanh, những người lao động linh hoạt, năng động, tự chủ, có trách nhiệm cao với bản thân, với công việc, với đơn vị, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội. Đó cũng là phẩm chất cần có của con người trong một nền sản xuất công nghiệp hiện đại và một xã hội dân chủ, văn minh.

2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là thiết chế quan trọng, điều kiện tiên quyết bảo đảm cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền XHCN là thiết chế quan trọng nhất bảo đảm nền KTTT phát triển đúng định hướng XHCN

Nhà nước pháp quyền là thành quả hết sức quan trọng trong lịch sử phát triển về nhà nước của nhân loại. Nó vừa là sản phẩm của những tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan trong điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể, vừa có đóng góp to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia dân tộc thời kỳ cận đại và hiện đại. Thực tiễn cho thấy, sự hình thành và phát triển của nhà nước pháp quyền gắn liền với những thay đổi và phát triển của nền kinh tế thế giới từ kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng hóa mà đỉnh cao của nó là KTTT.

Ở Việt Nam, Nhà nước pháp quyền XHCN là một thiết chế xã hội quan trọng nhất, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xây dựng Hiến pháp, hệ thống pháp luật, chính sách quản lý, điều tiết có chủ đích sự phát triển của nền KTTT hướng tới mục tiêu của CNXH.

Mối quan hệ hữu cơ này thể hiện ở việc Nhà nước pháp quyền XHCN đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và minh bạch; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.

Nhà nước pháp quyền XHCN cũng tạo môi trường kinh tế - xã hội và pháp lý thuận lợi cho nền KTTT định hướng XHCN được củng cố và phát triển. Bài học từ các nền kinh tế lớn trong các cuộc đại suy thoái kinh tế, cũng như sự thành công của đổi mới kinh tế ở Việt Nam những năm qua đã khẳng định vai trò của Nhà nước trong dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng tích cực và khắc phục những hạn chế của nền KTTT để phát triển nền kinh tế một cách tốt nhất là hết sức cần thiết.

Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là điều kiện tiên quyết bảo đảm quyền lực thật sự thuộc về nhân dân, là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ

Cốt lõi của một nền dân chủ chính là việc bảo vệ và phát huy năng lực tự thân của các cá nhân trong xã hội, trong khi đó, yêu cầu bảo vệ các cá nhân cũng như sự phát triển của họ lại chính là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đã và đang trở thành một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự phát triển của nền dân chủ XHCN tại Việt Nam.

Mối quan hệ giữa pháp quyền và dân chủ ở Việt Nam được thể hiện khá rõ nét trong khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đó là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Xét về bản chất, dân chủ và pháp quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò kiến tạo và phát triển của nhà nước và pháp luật đối với bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân thể hiện trên nhiều phương diện. Một là, nhà nước và pháp luật là công cụ, phương tiện đảm đương vai trò dẫn dắt, chi phối xã hội bằng việc kiến tạo môi trường và cơ hội pháp lý như nhau để các thành viên của xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau phát huy khả năng của mình để khởi nghiệp và phát triển. Hai là, pháp luật XHCN là phương tiện có khả năng bảo đảm bình đẳng xã hội. Ba là, pháp luật của Nhà nước pháp quyền XHCN là phương tiện để Nhà nước điều hòa lợi ích giữa các tầng lớp xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển hài hòa và ổn định. Bốn là, pháp luật là phương tiện để nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, giữ gìn an ninh, an toàn xã hội cho con người.

Từ phương pháp tiếp cận trên có thể thấy, tinh thần cốt lõi của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam chính là yêu cầu từ dân chủ. Yêu cầu này được xây dựng trên cơ sở triết lý pháp luật tổng quát của Hồ Chí Minh là lấy con người làm trung tâm. Do vậy, nhà nước pháp quyền chính là một thành tố quan trọng, không thể thiếu của một nền dân chủ ở Việt Nam.

3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển KTTT định hướng XHCN

Quan hệ giữa nền dân chủ XHCN và nền KTTT định hướng XHCN là mối quan hệ mật thiết trong tổng thể sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. Không có nền dân chủ XHCN không thể có CNXH, không thể có một nền KTTT định hướng XHCN phát triển một cách đúng đắn, đẩy nhanh tốc độ xây dựng CNXH ở nước ta. 

Với nền KTTT định hướng XHCN, trong những năm qua, nước ta đã thật sự giải phóng sức sản xuất, phát huy được tính năng động, tích cực của mọi thành phần kinh tế, mọi người được tự do, tự chủ sản xuất kinh doanh. Người dân được tự do, bình đẳng hơn trong việc làm giàu cho bản thân, gia đình và góp phần làm giàu cho đất nước, xã hội. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là “sân chơi” dân chủ, bình đẳng cho mọi người, mọi nhà, mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế, phù hợp với điều kiện đất nước và xu hướng vận động phát triển tiến bộ của thế giới.

Trong quá trình xây dựng, phát triển KTTT định hướng XHCN, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng mà nền kinh tế hướng tới, bởi “Đó là nền kinh tế được xây dựng ở một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội”(2) như Đại hội X (năm 2006) đã khẳng định..

Để khai thác tối đa và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng của điều kiện khách quan, một yêu cầu không thể thiếu là năng lực làm chủ của nhân dân phải được phát huy, đó là một trong những nhân tố chủ quan quan trọng bảo đảm sự thành công của quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN và của toàn bộ công cuộc đổi mới đất nước nói chung. Rõ ràng, phát triển một nền kinh tế với mục tiêu vì sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân thì đó cũng phải là sự nghiệp của chính nhân dân.

Những thuộc tính căn bản và quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN cho thấy, nền dân chủ XHCN ở Việt Nam là hoàn toàn tương thích, phù hợp với nền kinh tế ấy. Nó được quy định từ trong chính bản chất và mục tiêu tối cao, thống nhất của nền KTTT định hướng XHCN và nền dân chủ XHCN là đều phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của mọi sự phát triển và mọi sự phát triển đều xoay quanh nhân dân lao động. Đó chính là mục tiêu, đồng thời là động lực phát triển của nền KTTT định hướng XHCN.

Thứ hai, dân chủ XHCN vừa là bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN, vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước

Có thể khẳng định, dân chủ XHCN là một hình thức chính trị - nhà nước của xã hội, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực. Chính vì vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển đất nước. Dân chủ luôn là mục tiêu lớn của cách mạng Việt Nam và dân chủ hóa là con đường để hiện thực hóa mục tiêu đó.

Tuy nhiên, mở rộng dân chủ và quá trình dân chủ hóa phải được thực hiện trên một nền tảng pháp luật vững chắc và một cơ chế hoạt động hợp lý, có hiệu quả từ phía nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh chính là một biện pháp quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế của chế độ dân chủ trước đây, góp phần tiếp tục đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa. Vì vậy, từ Đại hội VII (năm 1991) của Đảng đến nay, Đảng ta đã luôn khẳng định: xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách nền hành chính nhà nước là những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp xây dựng chế độ dân chủ mới.

Theo chiều ngược lại, sự vững mạnh của Nhà nước pháp quyền XHCN cũng phụ thuộc vào chất lượng dân chủ. Nhà nước pháp quyền thật sự vững mạnh khi được xây dựng và phát triển trong một môi trường có sự giám sát, phản biện mạnh mẽ và sự tham gia có trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân. Một cơ chế giám sát hiệu quả của nhân dân đối với hoạt động công quyền cũng chính là một điều kiện quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Sự phát triển của nền dân chủ XHCN là thước đo sự trưởng thành của CNXH ở Việt Nam mà biểu hiện cao nhất và tập trung nhất là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước thay mặt nhân dân quản lý và điều hành nền KTTT định hướng XHCN nhằm phục vụ nhân dân; sự tương dung đó càng trở nên chặt chẽ càng bảo đảm thực hiện thành công tiến trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Nhà nước càng chủ động trong việc thực thi chức năng và nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội đất nước và nền KTTT định hướng XHCN càng thể hiện chức năng, sức mạnh đúng hướng, tập trung, hiệu quả. Qua đó, nền dân chủ XHCN càng được bảo đảm phát triển vững chắc và hoàn thiện không ngừng. Nền dân chủ XHCN được xây dựng sẽ làm cho Nhà nước thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đồng thời tạo sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong việc thực thi các chính sách của Nhà nước.

Như vậy, dân chủ XHCN vừa là điều kiện, vừa là động lực để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời, Nhà nước pháp quyền XHCN lại là cơ sở quan trọng để thực hiện và mở rộng nền dân chủ XHCN. Do vậy, chỉ có thể xây dựng được Nhà nước pháp quyền XHCN khi dân chủ hóa xã hội được thực hiện. Cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn đều chứng tỏ rằng, mỗi bước tiến trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN cũng là một cơ hội để mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội.

Những phân tích trên đây cho thấy, mối quan hệ giữa KTTT định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thực chất là mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Mối quan hệ giữa ba thực thể này thể hiện trong cơ chế vận hành của nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức chính trị -xã hội, của nhân dân. Trong đó, thị trường vận động, phát triển tuân theo các quy luật KTTT, đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp; Nhà nước không “chỉ huy” nền kinh tế bằng một “kế hoạch pháp lệnh”, không can thiệp sâu, trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như trong nền kinh tế kế hoạch trước đây, mà có vai trò quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế; Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, các hoạt động của doanh nghiệp, thị trường, đồng thời phản ánh với Nhà nước những vấn đề của thị trường và của Nhà nước có ảnh hưởng tới phát triển nền kinh tế cũng như đời sống của nhân dân.

4. Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

Những năm qua, tư duy về “ba trụ cột” của CNXH Việt Nam là KTTT định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN và nền dân chủ XHCN ở nước ta ngày càng được nhận thức và khẳng định rõ hơn. Việc giải quyết mối quan hệ giữa “ba trụ cột” này đã có những kết quả quan trọng. Nhờ đó, nền KTTT đã phát triển ngày càng có hiệu quả, tạo điều kiện vật chất và đặt ra những yêu cầu mới để xây dựng Nhà nước pháp quyền và hoàn thiện nền dân chủ XHCN.

Mặt khác, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN đối với nền KTTT ngày càng đi vào thực chất theo hướng Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh... thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và bảo vệ môi trường cũng như đề cao vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhân dân ngày càng có điều kiện vật chất và cơ chế pháp lý phát huy quyền làm chủ trong sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế cũng như trong thực hiện những quyền làm chủ, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Tuy nhiên, hoạt động của từng thành tố của “ba trụ cột” này còn có những hạn chế, yếu kém, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhận định: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp, chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch”(3); “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới”(4), nhất là vai trò “cầm lái” dẫn dắt, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế có phần mờ nhạt, chưa thể hiện rõ vai trò “trọng tài” công minh trong điều khiển “cuộc chơi” của các chủ thể kinh tế trên thị trường. Vai trò là “công cụ quan trọng nhất” để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân của Nhà nước cũng chưa được rõ. Việc xây dựng nền dân chủ XHCN cũng còn nhiều hạn chế, chưa phát huy rõ vai trò cơ sở, động lực thúc đẩy phát triển nền KTTT định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, “vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”(5).

Do vậy, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa “ba trụ cột” của mô hình CNXH Việt Nam trong tương lai, cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: 

Một là, xây dựng, hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng nhằm tạo cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và nền dân chủ XHCN.

Hai là, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo hướng “kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”(6). Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng, có tính ổn định, bền vững làm công cụ điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội, tạo hành lang pháp lý cho KTTT đi đúng định hướng XHCN và phát huy quyền dân chủ của nhân dân.

Ba là, “hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(7). Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nâng cao dân trí, tăng cường sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong việc tuân thủ pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ XHCN.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)

Ngày nhận bài: 03-02-2023; Ngày bình duyệt: 27-02-2023; Ngày duyệt đăng: 22-3-2023.

 

(1), (3), (4), (5), (6), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.128, 80, 89, 88, 284, 202.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.65, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.371.

PGS, TS ĐỖ THỊ THẠCH

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

TS NGUYỄN TRƯỜNG GIANG

Học viện Chính trị Công an nhân dân

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền