Trang chủ    Ảnh chính    Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong điều kiện hiện nay
Thứ tư, 26 Tháng 4 2017 15:26
32050 Lượt xem

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong điều kiện hiện nay

(LLCT) - Đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là vấn đề chiến lược, là tư tưởng nhất quán và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(1).

 

Được hình thành và hun đúc trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đoàn kết trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn xưa, ông cha ta đã dùng ca dao, tục ngữ để khuyên nhủ các thế hệ mai sau đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, cùng nhau lập nghiệp: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”; hay: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn/ Thuận bè thuận bạn, tát cạn biển Đông”... Chính nhờ tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng, nhân dân ta đã vượt qua mọi gian lao thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược: giặc Tống, Nguyên, Minh, Thanh... giữ vững non sông bờ cõi, viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Dưới thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được phát huy mạnh mẽ và phát triển đến đỉnh cao. Trong suốt cuộc đời cũng như cả tiến trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đại đoàn kết là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn, thành bại của cách mạng nước nhà. Trong tác phẩm Nên học sử ta, viết vào đầu năm 1942, Người khẳng định: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”(2). Vì thế, Người thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm động lực, nền tảng, tất cả vì lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động. Ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu, động lực liên minh, liên kết các giai tầng xã hội, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Dĩ công vi thượng” tất cả vì nước, vì dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Đảng, của đất nước lên trên hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra nguồn sức mạnh vô địch và sức sống bất diệt, thực hiện thành công chiến lược đại đoàn kết rất sáng tạo và độc đáo, rất nhân văn giữa Đảng và dân; giữa lực lượng vũ trang với nhân dân; giữa các dân tộc, các tôn giáo, các giai tầng xã hội khác nhau; không kể già, trẻ, gái, trai, không phân biệt bất kỳ tầng lớp nào; giữa quốc gia và quốc tế, trên tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công” mang lại nhiều kỳ tích cho cách mạng Việt Nam. Trên trường quốc tế, tinh thần đoàn kết của Người đã đạt được nhiều kết quả to lớn. Phong trào phản chiến ở Mỹ, ở Pháp và phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam diễn ra ở nhiều nước trên thế giới, đã làm cho kẻ thù xâm lược càng ngày càng bị cô lập. Trong các nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Người đã làm cho những người bạn lớn của Việt Nam dù có hiềm khích, mất lòng với nhau, nhưng vẫn luôn luôn nhất trí ủng hộ sự nghiệp kháng chiến, thống nhất đất nước của Việt Nam.

Nhận thức rõ chân lý “đẩy thuyền đi là dân, mà lật thuyền cũng là dân”; trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”; phát huy những giá trị cao đẹp, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định, đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Sứ mệnh lịch sử của Đảng là thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn nhằm chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, chính đáng nhưng mang tính tự phát của quần chúng thành sự tự giác, có tổ chức trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì độc lập dân tộc, vì tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho mọi người. Chính đường lối gây dựng, xây dựng và không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Mốc son đánh dấu sự tổng kết chân lý về tầm quan trọng của việc phát huy khối đại đoàn kết dân tộc được thể hiện qua Chính cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930. Từ hạt nhân đó, các hình thức tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân được hình thành và phát triển phù hợp với từng giai đoạn và điều kiện cách mạng cụ thể, khối đại đoàn kết được tập hợp và phát huy cao độ, sức mạnh đó đã được khẳng định qua những chiến thắng mang tầm thời đại: Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất năm 1945 thành công đưa nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ trở thành người làm chủ, chính quyền và mọi quyền lực thuộc về nhân dân; thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống thực dân Pháp. Tiếp nối truyền thống Điện Biên, cả dân tộc lại cùng kề vai, sát cánh trên đường kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà đỉnh cao là chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thu non sông về một mối, đưa đất nước bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, độc lập thống nhất Tổ quốc và cả nước đi lên xây dựng CNXH.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được khẳng định là đường lối nhất quán trong 30 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng; văn hóa xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi; quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao...

Những thành tựu đó chẳng những tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, mà còn khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.

Đảng đã tập hợp và quy tụ sức mạnh và niềm tin của cả dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân chung sức, chung lòng, đồng tâm, hiệp lực hướng đến mục tiêu chung xóa bỏ đói nghèo, lạc hậu, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Tinh thần đoàn kết ấy được thể hiện rõ nét trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - tổ chức đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là cầu nối thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đánh giá về những thành tựu trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời gian qua, Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước góp phần vào những thành tựu chung của đất nước”(3).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thời gian qua có lúc, có nơi chưa được phát huy đầy đủ; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến thay đổi cơ cấu xã hội cũng như tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương và giải pháp phù hợp; quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hóa hoặc thực hiện thiếu nghiêm túc; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp ở một số địa phương chưa sâu sát, chưa thiết thực, thiếu hiệu quả; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực bị vi phạm; tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội còn xảy ra ở nhiều nơi...

Hiện nay, bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường; đan xen cả thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn, đối với sự nghiệp đổi mới nói chung và đối với đường lối xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân nói riêng. Lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ dân tộc, gây thù hằn tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta; khoét sâu các mâu thuẫn, gây xung đột xã hội, kích động biểu tình, bạo loạn, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Đặc biệt, chúng đang tìm cách chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân; đối lập nhân dân với lực lượng vũ trang; chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, phá hoại liên minh công - nông - trí; kích động chống đối, làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Những vấn đề đó đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” cũng như sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay.

Trên bình diện quốc tế, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại. Tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn, chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hoạt động ly khai, can thiệp lật đổ, khủng bố diễn ra quyết liệt ở nhiều nơi trên thế giới. Trong khu vực, bên cạnh sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc là sự điều chỉnh, chuyển trọng tâm chiến lược của các nước lớn sang châu Á - Thái Bình Dương và sự tăng cường sức mạnh quân sự của nhiều nước trong khu vực. Những động thái trên không những làm cho tình hình Biển Đông vốn đã phức tạp sẽ tiềm ẩn nhiều diễn biến khó lường, mà còn phần nào tác động đến tư tưởng, tình cảm của các tầng lớp dân cư, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng vào khu vực và quốc tế. Hội nhập, toàn cầu hóa là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không chỉ tạo ra những thời cơ mà còn ẩn chứa cả những nguy cơ, thách thức lớn đối với sự nghiệp an ninh, quốc phòng của mỗi nước, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam. Việc nhận thức rõ quan điểm của Đảng: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh, chính là tiêu chí, là nguyên tắc để thực hiện đoàn kết quốc tế phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Âm mưu “diễn biến hòa bình” và các nguy cơ đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nhất là giữ vững chủ quyền biển, đảo và an ninh quốc gia đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải đồng lòng, chung sức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồngthời, phải “tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc...”(4). Kinh nghiệm của cha ông cũng như quy luật của lịch sử đã minh chứng, chỉ khi nào kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước; biến được sức mạnh ngoại sinh thành sức mạnh nội sinh, thành ý chí của toàn dân tộc chúng ta mới có thể giữ gìn vẹn toàn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ và bảo vệ thành công sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.

Khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời gian qua, đồng thời để giải quyết hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta nhấn mạnh:“Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(5).

Như vậy, không những tiếp tục khẳng định vai trò hết sức quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân, mà đồng thời đường lối của Đảng còn chỉ rõ: Bên cạnh việc đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, phải lấy “tinh thần yêu nước” để quy tụ lòng dân, tập hợp, đoàn kết “mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước” nhằm “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Để xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì đoàn kết trong Đảng và tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân giữ vai trò hết sức quan trọng. Đoàn kết trong Đảng phải trở thành hạt nhân, chỗ dựa vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân. Muốn vậy, mỗi cơ sở đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là tấm gương sáng, mẫu mực về cả tư duy lý luận và hành động thực tiễn cho toàn dân tin và noi theo.

Nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tại Đại hội XII, Đảng ta đã đề ra các nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới. Trong đó, có nhiệm vụ hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Đồngthời, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm.

Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hoàn thành trọng trách lớn lao nhưng hết sức vẻ vang, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thời gian tới, các cấp, các ngành cần tập trung thực hiện nghiêm túc những vấn đề chính sau:

Một là, phải tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội nhằm khuyến khích, động viên, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, phải có những chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp trong xã hội như công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các chính sách xã hội, nhất là các chính sách đối với các thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có công với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Có như vậy mới phát huy được tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Tuyệt đối tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy vai trò, tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những vấn đề quan trọng của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Phổ biến và thực hiện tốt hơn nữa “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, từng bước giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra. Theo đó, các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân; đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo nhân dân thực sự làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Hai là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. Tổ chức và động viên, quy tụ nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ kháng chiến cũ, các vùng chiến lược, vùng tôn giáo. Bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, chăm lo xây dựng các công trình phúc lợi cho nhân dân. Chú trọng xây dựng nông thôn mới; nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin... Tôn vinh đội ngũ trí thức, có cơ chế chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Xây dựng ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ. Tạo cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng; hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài, cần hỗ trợ bà con giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, góp phần bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng của họ.

Ba là, tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, trong đó “Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân”. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, góp phần làm cho mối liên hệ đó ngày càng khăng khít, đảm bảo ý Đảng luôn phù hợp với lòng dân. Bằng nhiều hoạt động thiết thực cụ thể, với nhiều hình thức vận động phong phú, đa dạng thông qua các tổ chức thành viên, Mặt trận Tổ quốc phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, hiểu biết về đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, về nhiệm vụ bảo đảm an ninh, quốc phòng; phát huy vai trò của nhân dân trong việc xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, từ đó tạo sự đồng thuận xã hội, vận động các tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn, đưa đất nước phát triển.

Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần làm tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị. Tăng cường giám sát để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao, ổn định xã hội phát triển toàn diện và bền vững đất nước. Mặt trận Tổ quốc phải là chủ thể tích cực phát huy vai trò của nhân dân trong tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho các chủ trương, chính sách của Đảng và của cấp ủy, chính quyền các địa phương, nhất là những vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần làm tốt vai trò chủ trì hiệp thương, phân công, phối hợp các tổ chức thành viên trong thực hiện giám sát và phản biện xã hội; cần huy động tối đa các nhà khoa học, những chuyên gia đầu ngành liên quan đến từng lĩnh vực để lấy ý kiến phản biện, đóng góp ý kiến, bổ sung, sửa đổi các văn bản, hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cho phù hợp với quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Năm là, tăng cường công tác phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần tham gia tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đang lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội, chính sách đối với văn nghệ sĩ, trí thức... nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Từng bước tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác, sự nhạy bén trong nhận diện và tích cực tham gia đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch.

Đại đoàn kết là bài học truyền thống nhưng luôn mang tính thời sự trong mọi thời kỳ, là phương châm để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân hành động và đạt được thành công trên con đường tiếp tục sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ cơ bản, vừa cấp bách, vừa lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị nhằm tăng cường sức mạnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh của khối đại đoàn kết phải được huy động và tổ chức trong thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc là nền tảng để củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho đất nước có đủ tiềm lực, sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2016

(1), (3), (4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.158-159, 156- 157, 147, 158- 159.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.216-217.

 

GS, TS Nguyễn Thiện Nhân

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban

Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền