Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Sự thống nhất giữa bản chất khoa học và cách mạng là đặc trưng của chủ nghĩa Mác
Thứ tư, 16 Tháng 3 2016 09:16
7966 Lượt xem

Sự thống nhất giữa bản chất khoa học và cách mạng là đặc trưng của chủ nghĩa Mác

(LLCT) - Đến nay, dù còn nhiều ý kiến khác nhau về những luận điểm nào đó trong toàn bộ học thuyết của C.Mác thì các xu hướng, chính kiến trên toàn thế giới vẫn xem ông là nhà nhân đạo chủ nghĩa hàng đầu với mong muốn giải thoát nhân loại khỏi những hạn chế của CNTB. Đồng thời tầm ảnh hưởng của ông còn ở chỗ, rất nhiều học giả trên thế giới vẫn tiếp tục đồng tình rằng “không một trường phái lý thuyết phát triển hiện đại nào lại không tính đến Mác”, hay “chủ nghĩa Mác đã trở thành một hợp phần của nhiều trào lưu tư tưởng hiện đại”(1)...

1. Mác là người đại diện cho một nền triết học tương lai - nền triết học thực sự khoa học và cách mạng.

 Theo C.Mác thực tiễn mới là mục đích của triết học, còn “tư tưởngxưa nay không thể dẫn đến chỗ vượt quá một tình trạng cũ của thế giới; bao giờ tư tưởng cũng chỉ có thể dẫn đến chỗ vượt quá những tư tưởng của tình trạng cũ của thế giới thôi. Nói chung, tư tưởng không thể thực hiện tốt được gì hết. Muốn thực hiện tốt những tư tưởng thì cần có những con người vận dụng một lực lượng thực tiễn”(2).

Chính nhờ nghiên cứu một cách công phu và toàn diện di sản tư tưởng của nhân loại trên nhiều lĩnh vực, mà  học thuyết của C.Mác là “sự kế thừa chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỷ XIX”, đặc biệt là sự kế thừa trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong các tư tưởng XHCN...

2. Phép biện chứng duy vật là kết quả quan trọng nhất của cuộc cách mạng vĩ đại trong triết học do C.Mác thực hiện và thực tế đó là linh hồn của chủ nghĩa Mác.

Tính thống nhất giữa bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết Mác là ở chỗ, học thuyết đó không phải chỉ để giải thích và nhận thức thế giới, mà còn nhằm cải tạo thế giới. Học thuyết đó đã xác lập được một quan niệm duy vật nhất quán về tự nhiên, xã hội và tư duy, đuổi chủ nghĩa duy tâm ra khỏi những hang ổ cuối cùng, điều mà trước C.Mác chưa từng ai thực hiện được. Còn phép biện chứng duy vật, không đơn thuần chỉ là phương pháp mà như đánh giá của V.I.Lênin là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện”(3).

Bằng việc kết hợp thế giới quan duy vật biện chứng với phép biện chứng duy vật, C.Mác đã xây dựng nên một quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử. Với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã khám phá ra các quy luật của sự phát triển xã hội, xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội và quan niệm về sự phát triển xã hội với tư cách là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Trên cơ sở đó, C.Mác đã luận chứng một cách toàn diện và sâu sắc về mặt lý luận sự tất yếu diệt vong của CNTB và sự tất thắng của CNXH, học thuyết về điều kiện giải phóng giai cấp vô sản và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản.

C.Mác đã nhấn mạnh mối liên hệ giữa phép biện chứng duy vật của mình và cuộc đấu tranh chống chế độ tư bản. Ông viết: “Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng”(4).

3. C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng học thuyết của mình không phải xuất phát từ những mong muốn chủ quan hay những suy nghĩ tư biện. Các ông đã phát hiện thấy những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa trong lòng xã hội tư bản, khám phá ra những quy luật vận động của CNTB do đòi hỏi của phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, mà tiêu biểu là giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển đầu thế kỷ XIX.

Gắn liền với sự xuất hiện học thuyết Mác là sự ra đời của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là sự ra đời của các đảng cách mạng của giai cấp vô sản trên phạm vi toàn thế giới, là việc phong trào tự phát của giai cấp công nhân chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản trở thành một cuộc đấu tranh giai cấp tự giác nhằm lật đổ CNTB và cải tạo xã hội bằng cách mạng, theo những nguyên lý của CNXH khoa học. Chính học thuyết của các ông đã tìm thấy vũ khí vật chất ở giai cấp vô sản và quần chúng lao động, còn giai cấp vô sản và quần chúng lao động đã tìm thấy vũ khí tinh thần ở học thuyết của các ông.

Lịch sử đã chứng minh, trước khi xuất hiện học thuyết Mác, mọi phong trào vô sản nổ ra đều mang tính tự phát không có được một mục đích mang tính căn cứ khoa học, không có được con đường đúng đắn để tự giải phóng khỏi quyền lực tư sản. Tính khoa học và cách mạng đó của học thuyết Mác đã được V.I.Lênin chỉ rõ: “Chỉ có chủ nghĩa triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích được địa vị thực sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa”(5).

Ở C.Mác cũng như Ph.Ăngghen, phẩm chất khoa học và cách mạng là không thể tách rời. Cuộc đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận có mối liên hệ nội tại, mật thiết với cuộc đấu tranh vì một chế độ chính trị xã hội dân chủ, tự do, công bằng, xứng đáng với con người. Đối với các ông, lý luận phải dấn thân vào cuộc đấu tranh chính trị và chính trị cần phải được chỉ dẫn bằng triết học, bằng lý luận. Chỉ khi triết học xác lập được mối liên minh chặt chẽ với chính trị thì triết học đó mới có khả năng trở thành chân lý.

Tóm lại, học thuyết Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì nó là phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới, mà còn là sự phát triển hợp logíc của lịch sử tư tưởng nhân loại. Nó đem lại cho chúng ta quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra và nhất là phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.

4. Bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết Mác không những được thể hiện trong tinh thần phê phán cách mạng đối với mọi học thuyết sai lầm và phản động, mà còn ở tinh thần tự phê phán để tự điều chỉnh, tự bổ sung, thậm chí tự phủ định luận điểm này hay luận điểm khác khi luận điểm ấy không còn phù hợp với thực tiễn. Ph.Ăngghen khẳng định, chính Mác là một minh chứng đầy đủ cho “tinh thần tự phê bình nghiêm ngặt của ông muốn đảm bảo rằng các phát kiến của mình phải đạt đến sự hoàn thiện cao nhất trước khi đưa chúng đến với công chúng”(6).

C.Mác, Ph.Ăngghen luôn nhắc nhở rằng học thuyết của các ông không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động. Và như bất cứ lý luận nào khác, học thuyết của các ông cũng phải trải qua sự thử thách, khảo nghiệm của thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện và phát triển.

Vì học thuyết Mác là sự thống nhất giữa bản chất khoa học và cách mạng, do vậy học thuyết đó cũng cần được tiếp nhận trên tinh thần phát triển và sáng tạo. V.I.Lênin là biểu tượng kiểu mẫu, vừa bảo vệ nhiệt thành chủ nghĩa Mác, vừa có những đột phá về lý luận, đưa chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới, tương xứng với thời đại của ông.

Nhưng ngay từ đầu, V.I.Lênin cũng đã nói rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triểnhơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạochung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga…”(7).

Khi vận dụng học thuyết của C.Mác vào nước Nga ở thời đại đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin nhấn mạnh: “... so với các nước tiên tiến, thì đối với người Nga, bắt đầucuộc đại cách mạng vô sản là việc dễ dàng hơn, nhưng tiếp tụccuộc cách mạng đó và đưa nó đến thắng lợi cuối cùng, với ý nghĩa là tổ chức toàn vẹn một xã hội xã hội chủ nghĩa, lại là việc khó khăn hơn”(8). Cho nên, muốn xây dựng thành công một xã hội mới, đã đến lúc cần thiết phải thay đổi về căn bảnquan niệm của chúng ta về CNXH.

Như vậy, V.I.Lênin vừa rất mực trung thành với chủ nghĩa Mác, lại vừa có những luận điểm khai phá, thay đổi, bổ sung lý luận về con đường, biện pháp xây dựng CNXH.

Những tuyên bố gần đây của một số học giả rất đáng để chúng ta quan tâm như : “Nếu như không có V.I.Lênin thì cương lĩnh chính trị của Mác có lẽ cùng với thời gian đã đi vào quên lãng”(9).

5. Nhân loại đang bước tiếp vào giai đoạn mới chứa đựng biết bao sự kiện mới mẻ, phức tạp trong mọi lĩnh vực của thực tiễn và tri thức, tạo ra tiền đề cho việc xuất hiện một nền văn minh mới. Nhiệm vụ lúc này của những người mácxít chân chính là phải tiếp tục phát triển mạnh mẽ học thuyết Mác, để học thuyết đó xứng đáng là sự kết tinh thực sự của tri thức nhân loại trong thời đại ngày nay. Nhằm tiếp cận đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phải đặc biệt lưu ý một số vấn đề cơ bản sau đây:

Cần xem C.Mác là một nhà triết học lỗi lạc chứ không phải là nhà tương lai học toàn năng. Và dù rất đỗi vĩ đại, Mác cũng như mọi nhà khoa học khác chỉ có thể cống hiến cho nhân loại những mặt nào đó và trong phạm vi nào đó những luận điểm có ý nghĩa thúc đẩy lịch sử tiến lên. Cũng cần phải nói rằng trong hệ thống lý luận của C.Mác còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, vì lúc đó chưa có đủ điều kiện để C.Mác có thể nghiên cứu đầy đủ và đi đến những kết luận cuối cùng. Có những vấn đề Mác mới chỉ mới nêu ra những suy nghĩ ban đầu, những gợi ý, những dự đoán đòi hỏi các thế hệ sau phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Chủ nghĩa Mác phải được bổ sung và khi cần thiết phải tự phủ định điểm này hay điểm khác, và chỉ có như thế nó mới có sức sống.

Từ những vấn đề có tính quy luật, C.Mác chỉ có thể dự báo một cách khái quát một mô hình tổng thể về tương lai trên những mặt nào đó, còn chính xác đến đâu là tùy thuộc vào những diễn biến của dân tộc hoặc thời đại, mà không ai có thể lường trước được.

Chúng ta trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, nhưng không có nghĩa chỉ là sự trở lại với C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, như vậy khác nào thay thế hình thức giáo điều này bằng một hình thức giáo điều khác. Điều quyết định hơn là tinh thần dũng cảm dám từ bỏ đường mòn quen thuộc, dám nhận lấy trách nhiệm khai phá đường đi mới. Phải luôn luôn đề cao sự tìm kiếm, thể nghiệm về những con đường đi lên thích hợp.

Phải mở rộng tự do tư tưởng để thảo luận và phát triển chủ nghĩa Mác. Cần nhận thức rõ mối tương quan và sự khác nhau giữa chính trị và khoa học (đặc biệt là trong lĩnh vực lý luận chính trị). Cần nhớ đến lời nhắc nhở của V.I.Lênin là: “Không nên đi tìm “âm mưu” hoặc sự “chống đối” ở những người có sự suy nghĩ khác hoặc làm theo cách khác, mà cần phải coi trọng những người có đầu óc độc lập…”(10). Hơn nữa, cần phải có thái độ đối thoại cởi mở, bình đẳng, biết lắng nghe để lựa chọn, tiếp nhận, bổ sung cho nhau với các trào lưu mácxít khác nhau và ngoài chủ nghĩa Mác.

Cần thoát khỏi thiên kiến khi xem xét những học thuyết hiện đại ngoài mácxít, đặc biệt là của các triết gia tư sản khi họ bàn về các vấn đề con người và xã hội. Việc quá nhấn mạnh nhân tố tư tưởng trong khi phê phán đã không cho phép chúng ta thấy được những hạt nhân hợp lý của các học thuyết tư sản. Không chỉ phê phán mà còn phải tiếp thu những hạt nhân hợp lý của các trào lưu triết học khác nhau, để làm giàu thêm vốn tri thức của triết học mácxít, để nó luôn thực sự giữ được vai trò là một học thuyết khoa học và cách mạng. Hơn nữa, tư duy lý luận của chúng ta không chỉ dừng lại ở sự chĩa mũi nhọn vào kẻ thù, phân tích phê phán chúng mà đồng thời còn phải biết dũng cảm và biết làm công việc phê phán chính bản thân mình, tự phê phán chính bản thân CNXH hiện thực. Việc chỉ ra được một cách chính xác và thuyết phục cả những cái đúng lẫn cái không còn đúng trong học thuyết Mác là việc làm không dễ nhưng hết sức cần thiết.

Sức sống của chủ nghĩa Mác được quyết định trước hết bởi tính khoa học và cách mạng, bởi những quy luật khách quan mà nó khám phá, bởi những nguyên lý cơ bản của nó là sự phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan. Những người cộng sản cần quán triệt nó với tính cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Nhưng, đặc biệt là giới trí thức và tầng lớp lãnh đạo phải nỗ lực không ngừng để nhận thức đầy đủ và đúng đắn nó, để suy nghĩ độc lập và vận dụng một cách khoa học, sáng tạo góp phần cải tạo thực tiễn, xây dựng một xã hội công bằng và phát triển, đồng thời góp phần đưa học thuyết đó vươn lên tầm cao của thời đại.

_____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2015

 (1), (9) Xem V.I.Ovsjannikov: Số phận của chủ nghĩa Mác, Tài liệu phục vụ nghiên cứu (lưu hành nội bộ) - Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.4,2.

(2) C.Mác-Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.1,Nxb Sự thật, HàNội, 1980, tr.154

(3), (5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.23,Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 53, 57-58.

(4) C.Mác: Tư bản, tập thứ nhất , Q.1, P.I, t.1,Nxb Tiến bộ, Mátxcơva - Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.28.

(6) C.Mác-Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.2, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, tr.645.

(7) V.I. Lênin: Toàn tập, t.4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tr.232.

(8) Sđd, t.30, tr.367.

(10) Sđd, t.54, tr.96.

 

TS Lâm Quốc Tuấn

Viện Xây dựng Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền