Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Mô hình phát triển của Việt Nam - thời cơ và những thách thức đặt ra trong bối cảnh thế giới hiện nay
Thứ tư, 28 Tháng 12 2016 15:51
4355 Lượt xem

Mô hình phát triển của Việt Nam - thời cơ và những thách thức đặt ra trong bối cảnh thế giới hiện nay

(LLCT) - Mô hình phát triển của Việt Nam với giá trị cốt lõi là tự do, dân chủ, nhân văn và yêu chuộng hòa bình với 4 trụ cột là tự do trong phát triển kinh tế; nhà nước pháp quyền tiến bộ hướng tới thực hiện chức năng kiến tạo phát triển; phát huy giá trị văn hóa tiên tiến, thực hiện công bằng xã hội đi đôi với bảo đảm quyền con người và không ngừng dân chủ hóa; hội nhập quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình và tiến bộ xã hội. Thực tế 30 năm đổi mới, mô hình đó đã được kiểm chứng là đúng đắn với điều kiện Việt Nam. Trước cục diện và bối cảnh thế giới hiện nay, mô hình phát triển của Việt Nam đang có cơ hội lớn, đồng thời đứng trước những thách thức rất lớn.

1. Tự do, dân chủ, nhân văn vì con người và yêu chuộng hòa bình - giá trị cốt lõi trong mô hình phát triển của Việt Nam

Thực hiện đường lối đổi mới trên cơ sở kế thừa những tinh hoa phát triển của loài người, nhân dân Việt Nam đang không ngừng nỗ lực kiến tạo mô hình phát triển phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà lớp lớp các thế hệ người đã trao truyền cho thế hệ hôm nay. Trong hết thảy những khía cạnh của mô hình phát triển, có thể được nhìn nhận theo những chiều cạnh khác nhau, tựu chung lại, có thể khái quát mô hình phát triển của Việt Nam trên 4 trụ cột quan trọng nhất là: i) Tự do trong phát triển kinh tế; ii) Nhà nước pháp quyền tiến bộ hướng tới thực hiện chức năng kiến tạo phát triển; iii) Phát huy giá trị văn hóa tiên tiến, thực hiện công bằng xã hội đi đôi với bảo đảm quyền con người và không ngừng dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội nhằm cải thiện toàn diện cuộc sống của nhân dân; iiii) Hội nhập quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau, hai bên cùng có lợi, vì hòa bình và tiến bộ xã hội.

 

Xét về phương diện kinh tế, trên cơ sở tích lũy kinh nghiệm phát triển của chính mình đã trải qua và thành tựu văn minh của nhân loại trong việc tạo động lực phát triển kinh tế, Việt Nam ngày nay đang thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về bản chất, kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam là mô hình kinh tế hướng tới sự tự do và phát triển bền vững. Trong đó, mọi chủ thể kinh tế được tự do phát huy khả năng sáng tạo, sự nhiệt tình cống hiến, đem lại những giá trị vật chất, tinh thần ngày càng phong phú cho người dân trong nước cũng như cộng đồng quốc tế. Nền kinh tế này thực hiện sự tuân thủ các quy luật thị trường hiện đại dựa trên những nguyên tắc căn bản về đa dạng hóa quyền sở hữu cũng như quyền tự do kinh doanh của mọi chủ thể trong xã hội. Hơn thế, không phải là nền kinh tế thị trường mà ở đó các chủ thể kinh tế chỉ vì mục tiêu lợi nhuận tối thượng để sẵn sàng bỏ qua lợi ích của xã hội, giá trị sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam hướng tới sự chú trọng lợi ích chính đáng và giá trị nhân văn trong hoạt động kinh doanh, tôn trọng quyền phát triển của người dân lao động đích thực, quan tâm thực chất đến việc khắc phục những tổn thất về môi trường đã xảy ra và hướng tới không làm tổn thương nhiều hơn môi trường tự nhiên trong tiến trình phát triển, cổ vũ và đòi hỏi các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội. Đó là nền kinh tế trong đó bảo đảm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách trong suốt tiến trình phát triển, thực hiện quyền và cơ hội phát triển bình đẳng của mọi thành viên trong xã hội cũng như cộng đồng doanh nghiệp, không phân biệt đối xử và không định hướng phân biệt đối xử.

Không những thế, kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam còn được xác định tiến đến tích hợp với những giá trị phát triển chung của thế giới ngày nay, đó là sự tự do thương mại hàng hóa, dịch vụ, dịch chuyển lao động, tuân thủ những nguyên tắc chung trong hệ thống các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu, hướng tới tham gia tích cực vào tiến trình thuận lợi hóa các cơ hội thụ hưởng giá trị vật chất và tinh thần cho người dân, bảo đảm lợi ích thỏa đáng cho các chủ thể kinh tế cũng như người dân, sẵn sàng tiếp nhận sự cạnh tranh bình đẳng theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế để tạo ra sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau và các quan hệ kinh tế đối ngoại lành mạnh trong môi trường kinh doanh toàn cầu.

Từ trong lịch sử phát triển của các mô hình kinh tế thị trường của thế giới cho thấy, đây là mô hình kinh tế thị trường chưa có tiền lệ trọn vẹn trong tiến trình phát triển của nhân loại nói chung. Tuy nhiên, cũng như nhiều mô hình kinh tế thị trường cụ thể khác, mọi quốc gia đều phải nỗ lực xây dựng từng bước mới có thể dần hoàn thiện và đạt được những thành tựu lớn. Mặt khác, thế giới cũng chưa bao giờ và không thể có cơ hội để chứng kiến những mô hình kinh tế thị trường hoàn toàn mang đặc điểm trùng khít nhau; ngược lại, các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới đều phản ánh đặc trưng kinh tế - chính trị - xã hội của quốc gia tương ứng. Với lẽ như vậy, kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, hoàn toàn có cơ sở khách quan để tin tưởng kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam sẽ sớm trưởng thành để đóng góp vào sự đa dạng trong các mô hình kinh tế thị trường của nhân loại ngày nay và trong tương lai.

Xét về mô hình nhà nướctrong phát triển, từ nhiều thập kỷ trở lại đây, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền XHCN, thực hiện nguyên tắc luật pháp là tối thượng, mọi công dân trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, lấy luật pháp là căn cứ khách quan trong giải quyết các quan hệ thuộc đời sống xã hội. Mọi quyền lực của xã hội là thống nhất thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người dân thực hiện quyền lực trực tiếp thông qua việc tham gia, đóng góp ý kiến để xây dựng luật pháp, quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, những người nắm giữ các vị trí lãnh đạo, các công chức trong hệ thống chính trị hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện cho quyền lực của mình từ Trung ương (Quốc hội) đến địa phương (Hội đồng Nhân dân các cấp). Các đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền sở hữu tài sản của người dân và doanh nghiệp được pháp luật bảo hộ.

Quan sát từ khía cạnh chức năng, mô hình nhà nước pháp quyền của XHCN của Việt Nam hiện nay đang chuyển dịch mạnh từ nhà nước mệnh lệnh hành chính sang thực hiện vai trò của nhà nước kiến tạo phát triển thông qua tạo lập môi trường bình đẳng, tự do cho các hoạt động kinh tế, cho các chủ thể kinh tế trong khuôn khổ luật pháp, nhà nước thực hiện định hướng, quản lý xã hội bằng quy hoạch, kế hoạch và các chính sách, không thực hiện can thiệp trực tiếp vào quá trình hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân, thực hiện người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Nhà nước cũng thực hiện hệ thống luật pháp tương thích với các quy định quốc tế mà Việt Nam cam kết tham gia.

Xét về khía cạnh văn hóa và dân chủ hóa trong đời sống xã hội,Việt Nam thực hiện xây dựng nền văn hóa tiên tiến mang đậm nét giá trị văn hóa truyền thống tiến bộ  đoàn kết, yêu nước, yêu chuộng hòa bình, yêu tự do theo tinh thần kiến tạo nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Đi liền với phương châm xây dựng nền văn hóa như vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán quan điểm xuyên suốt là lấy con người làm trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển, tạo lập môi trường hòa bình cho phát triển, chăm lo lợi ích chính đáng của người dân. Việt Nam luôn nhất quán tinh thần thực hiện quyền phát triển, “quyền được sống, quyền tự do và quyền  mưu cầu hạnh phúc” là những quyền cao nhất trong cấu trúc quyền con người của người dân.  Nhà nước Việt Nam xác định sứ mệnh của mình là làm cho những quyền đó của người dân được thực hiện chân thực nhất trong cuộc sống và để cho người dân cảm nhận được giá trị thực của các quyền như vậy, coi đó là phương thức tốt nhất trong thực hiện quyền con người trên thực tế đời sống xã hội.

Cùng với việc đề ra các nguyên tắc về bảo đảm quyền con người, các khía cạnh nhằm tạo sự tự do về tinh thần, tư tưởng của đời sống xã hội như phát huy dân chủ, thực hiện tự do tôn giáo, thực hiện sự bình đẳng giữa các cộng đồng tộc người trong ngôi nhà chung các dân tộc Việt Nam cũng luôn được quán triệt trong mọi chủ trương phát triển của Việt Nam. Trong quá trình phát triển của mình, Việt Nam xác quyết quyền tự do theo và không theo tôn giáo là quyền chính đáng của mỗi người dân, Nhà nước bảo đảm điều kiện cho các tổ chức, tín đồ, chức sắc tôn giáo được tự do hành đạo bằng tín ngưỡng và đức tin của họ trong khuôn khổ luật pháp. Các hành vi lợi dụng đức tin của người dân để gây mất ổn định trong xã hội, chia rẽ khối đoàn kết giữa các cộng đồng dân cư, đe dọa đến môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển của chính người dân, vi phạm các quy định của luật pháp sẽ bị pháp luật chế định.   

Xét về chính sách đối ngoại, Việt Nam chủ trương tích cực hội nhập quốc tế toàn diện trên cơ sở chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác cùng phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế. Mục tiêu chung của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia với sự kiến tạo nền hòa bình, thịnh vượng và tiến bộ chung cho khu vực và cả thế giới.

Khái quát lại, thực hiện những giá trị cốt lõi trong mô hình phát triển từ các trụ cột nêu trên chính là nhằm tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minhcho đất nước và người dân Việt Nam. Thiết nghĩ, đó cũng là giá trị phổ quát mà hầu hết các quốc gia đều đặt ra cho mình và vì thế có thể cho rằng giá trị cốt lõi trong mô hình phát triển của Việt Nam cũng không nằm ngoài nguồn mạch hệ giá trị luôn không ngừng tuôn chảy trong lương tri và khát vọng của loài người đang nỗ lực phấn đấu từ trước tới nay.

2. Kiểm chứng tính đúng đắn trên thực tế mô hình phát triển của Việt Nam

Thực tế 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, mô hình phát triển của Việt Nam đã được kiểm chứng là đúng đắn với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Trên lĩnh vực kinh tế, sự phù hợp của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thể hiện ở việc chính mô hình kinh tế thị trường này đã tạo ra động lực giải phóng mọi nguồn lực đất đai, lao động, vốn, trí tuệ cho tiến trình phát triển đất nước kể từ thập kỷ 90 thế kỷ XX đến nay. Trở lại những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX, thu nhập trung bình của người dân Việt Nam khi đó chỉ đạt xấp xỉ 80 USD/người, đến nay, sau gần 30 năm phát triển, con số đó đã tăng hơn 20 lần (GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2015 là 2.109 USD/người(1[1])). Tốc độ tăng trưởng liên tục trong gần 30 năm đạt xấp xỉ 6,5%. Với thành tựu kinh tế ấy, đời sống của người dân từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa của Việt Nam đã được đổi thay rõ rệt. Mọi người dân có động cơ, nguyện vọng làm giàu chính đáng theo quy định của pháp luật đều được cổ vũ thực hiện ý tưởng nhằm tạo việc làm và lợi ích thiết thực cho người lao động. 

Bắt nhịp với xu thế mở cửa và hội nhập của thế giới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn. Nhờ nỗ lực không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, Việt Nam đã thu hút được hàng nghìn nhà đầu tư đến từ rất nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Chỉ tính từ năm 1987 khi Luật Đầu tư nước ngoài được thông qua đến hết năm 2014, Việt Nam thu hút được tổng số vốn đăng ký FDI lên đến 254,3 tỷ USD với 17.520 dự án đầu tư trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Riêng năm 2015, giá trị vốn FDI thực hiện đạt 14,5 tỷ USD. Quyền sở hữu và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư được bảo hộ. Hiện ở Việt Nam không có bất kỳ trở ngại nào đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện chuyển lợi nhuận về quê hương của họ. Chính phủ và các cấp chính quyền của Việt Nam không ngừng nỗ lực cải thiện môi trường thuận tiện nhất cho các nhà đầu tư trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi.

Song song với việc không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, từ yêu cầu của chính mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu hướng thời đại, Việt Nam đã tham gia và là thành viên của hầu hết các thể chế kinh tế quốc tế lớn như WB, IMF, WTO và gần đây nhất là Việt Nam đã ký kết và là một trong 12 thành viên sáng lập của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Việt Nam cũng đã và đang tích cực, chủ động cùng thực hiện ký kết nhiều hiệp định tự do kinh tế song phương, đa phương, trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... Đó là những minh chứng cho sự tự do đích thực trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam đang trong tiến trình hoàn thiện.

Không chỉ có vậy, từ bản chất, tự do kinh tế trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam còn được biểu hiện ở sự tự do xác lập hệ thống quyền sở hữu, quyền quản lý kinh doanh của mọi chủ thể kinh tế. Hiện nay, các chủ thể sở hữu trong nền kinh tế Việt Nam hết sức đa dạng, các loại hình sở hữu, quan hệ sở hữu tài sản được tự do hình thành theo các quy luật kinh tế khách quan, có sở hữu tư nhân, có sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân và tập thể, sở hữu tập thể của những người lao động, sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài, sở hữu hỗn hợp trong các công ty cổ phần trong nước, các công ty cổ phần nước ngoài. Kinh tế tư nhân được định vị là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế đa dạng, cạnh tranh bình đẳng trên cơ sở luật pháp. Nếu so sánh với trước năm 1986 ở Việt Nam thì đây là bước tiến rất dài và ngoạn mục trong tư duy kinh tế và sự tự do kinh tế trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trước đây, quyền sở hữu chỉ được bó hẹp trong phạm vi sở hữu công cộng với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Hiện nay, trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có sự hiện diện đầy đủ và thực chất của mọi loại hình sở hữu tương tự như mọi mô hình kinh tế thị trường của các quốc gia trên thế giới.

Từ những thành tựu kinh tế, quan điểm kết hợp tăng trưởng đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội cũng đã được kiểm chứng thông qua những thành tựu đặc biệt quan trọng về xóa đói giảm nghèo, thực hiện bảo đảm an sinh xã hội. Việt Nam xác định chăm lo đến xóa đói giảm nghèo thực chất là bảo đảm thực hiện quyền con người thiết thực nhất của người dân. Chừng nào người dân còn nghèo đói, chừng đó quyền con người chưa thực sự trọn vẹn. Vì vậy, trong gần hai thập kỷ trở lại đây, nhờ tích cực thực hiện xóa đói, giảm nghèo của cả Nhà nước cùng cộng đồng dân cư, hơn 43 triệu người Việt Nam đã thoát nghèo, đưa tỷ lệ người nghèo của Việt Nam từ chỗ trên 56% dân số trong thập kỷ 90 thế kỷ XX theo chuẩn nghèo của Ngân hàng thế giới xuống còn dưới 10% dân số như hiện nay. Quá trình giảm nghèo của Việt Nam đang tiến tới thực hiện giảm nghèo đa chiều và giảm nghèo bền vững, rút ngắn dần khoảng cách phân hóa phát triển thu nhập, cơ hội thụ hưởng lợi ích từ chính quá trình phát triển giữa người dân nông thôn và thành thị, giữa các tầng lớp dân cư. Cùng với đó, hàng triệu người dân là các hộ gia đình thuộc đối tượng chính sách, chịu ảnh hưởng của hậu quả chiến tranh được chăm lo, quan tâm cả về vật chất cũng như tinh thần. Kết quả này là thực tế sinh động minh chứng cho biểu hiện của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN trong đời sống xã hội hiện thực.

Trong hoàn thiện mô hình nhà nước pháp quyền, thực hiện chức năng kiến tạo phát triển, gần ba thập kỷ trở lại đây, để phát huy vai trò làm chủ của người dân, thực hiện tinh thần pháp luật là tối cao, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, Hiến pháp và pháp luật đã từng bước được sửa đổi. Bản Hiến pháp 2013 của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở sự tham gia góp ý sâu rộng từ các tầng lớp dân cư thể hiện ý chí, nguyện vọng chính đáng của người dân trong xã hội. Cùng với việc hoàn thiện bản Hiến pháp thể hiện ý chí của nhân dân, Quốc hội Việt Nam đã xây dựng, hoàn thiện và sửa đổi hàng trăm đạo luật trong gần 30 năm trở lại đây, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay đã được luật hóa và quản lý bằng luật. Các đạo luật của Việt Nam đã thể hiện sự tuân thủ, tương hợp với các nguyên tắc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Đây là kết quả mang tính bước ngoặt kiểm chứng cho tính đúng đắn của mô hình nhà nước pháp quyền thực hiện chức năng kiến tạo phát triển, bắt kịp với xu hướng tiến bộ của thời đại về vai trò của nhà nước trong quá trình phát triển ngày nay.

Việc phát huy dân chủ thông qua hệ thống luật pháp đối với mọi người dân nói chung cũng như các nhóm dân cư dễ bị tổn thương nói riêng được thông qua mạng lưới trợ giúp pháp lý sâu rộng tại các địa phương trên cả nước. Để phát huy quyền làm chủ của người dân, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các cơ quan và tổ chức trong bộ máy nhà nước khi thực thi sứ mệnh công vụ công chức tuân thủ nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng các thành quả do chính sức lao động của mình đã cống hiến cho xã hội, thực hiện tinh thần mỗi cán bộ đều là người công bộc phục vụ trung thành cho lợi ích của nhân dân. Mặc dù còn có những biểu hiện chưa được hài lòng với người dân ở những địa điểm cá biệt khác nhau, nhìn về tổng thể, mô hình nhà nước pháp quyền thực hiện chức năng kiến tạo phát triển thay cho chức năng quản lý hành chính là đúng đắn với điều kiện của Việt Nam trong xu thế phát triển của thế giới.

Trên lĩnh vực văn hóa và dân chủ hóa đời sống xã hội, trong suốt những năm gần đây, Việt Nam xác định văn hóa và dân chủ hóa là một trong những trụ cột quan trọng của mô hình phát triển. Văn hóa và dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội sẽ góp phần tạo ra môi trường cho sự giải phóng sức sáng tạo, phát huy tiếng nói của người dân trong các quá trình hoạch định và tổ chức thực thi chính sách phát triển. Trong đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn hóa được coi là nền tảng, là động lực tinh thần cho sự phát triển. Thực hiện tinh thần đó, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống của Việt Nam được thúc đẩy khôi phục với sự tham gia trực tiếp của các cộng đồng dân cư, nhiều loại hình văn hóa truyền thống của Việt Nam đã được UNESCO vinh danh là di sản của nhân loại cần được bảo tồn. Sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế như vậy đã tiếp thêm sự hào hứng cho người dân Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tiến bộ của dân tộc. Nhiều hoạt động hợp tác trên lĩnh vực văn hóa được triển khai mạnh mẽ giữa Việt Nam với các quốc gia.

Đi cùng với văn hóa, để chăm lo đời sống tinh thần của người dân, các hoạt động tôn giáo chân chính được xã hội đồng thuận, cổ vũ phát triển. Các tôn giáo cùng thực hiện tinh thần đoàn kết, chung sức xây dựng địa phương, đất nước. Các hoạt động đối ngoại tôn giáo được Nhà nước ủng hộ, khuyến khích thực hành giáo lý, giáo luật, tổ chức quy tụ tín hữu theo khuôn khổ của pháp luật, các chức sắc tôn giáo ở Việt Nam được tự do sáng tạo trong chăm sóc tinh thần cho người dân có đạo. Chỉ trong vòng một thập kỷ trở lại đây, hàng nghìn cơ sở thờ tự, cơ sở đào tạo, thực hành giáo lý, giáo luật của các tôn giáo ở Việt Nam được trùng tu, xây mới, phát triển, nâng cấp khang trang, tạo sự hứng khởi trong nhân dân và các chức sắc tôn giáo. Các hội, dòng tôn giáo được thành lập rất phong phú và đa dạng. Mỗi sự kiện quan trọng của các tôn giáo lớn ở Việt Nam, đại diện cấp cao của nhà nước Việt Nam thường xuyên quan tâm chăm lo thăm hỏi, động viên các chức sắc tôn giáo, giáo hội thể hiện tinh thần đoàn kết, cởi mở, trân trọng đối với các hoạt động tôn giáo chân chính.

Về khía cạnh bảo đảm tự do tư tưởng, để tạo ra các kênh thông tin để người dân bày tỏ chính kiến sáng tạo trên tinh thần xây dựng của mình, các tổ chức và cơ quan báo chí, mạng internet được phát triển mạnh mẽ. Hiện nay ở Việt Nam, có hơn 700 cơ quan báo chí với đầy đủ các loại hình báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình đang hoạt động với gần 20.000 nhà báo chuyên nghiệp. Nhiều cơ quan báo chí quốc tế có phóng viên và đại diện hoạt động ở Việt Nam. Mạng internet và viễn thông không dây được phủ sóng tới hơn 90% các xã ở Việt Nam, kể cả vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách về cơ hội thụ hưởng dịch vụ thông tin giữa các vùng miền, hơn 160 triệu thuê bao điện thoại di động đã được cung cấp ở Việt Nam, hầu hết các tầng lớp dân cư ở Việt Nam biết sử dụng điện thoại di động trong liên lạc và trao đổi thông tin.

Về đối ngoại, từ một đất nước hầu như bị cô lập từ sau chiến tranh đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, ngày nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia vào hầu hết các cơ cấu tổ chức của Liên Hợp quốc, tham gia 70 tổ chức quốc tế, khu vực và đóng vai trò tích cực chủ động và có trách nhiệm. Tiếng nói của Việt Nam trên các diễn đàn toàn cầu được tôn trọng và hoan nghênh, nhiều sáng kiến của Việt Nam được thế giới ghi nhận.

Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại cũng ghi nhận nhiều dấu mốc quan trọng. Dấu mốc 1986 với việc mở cửa ra thế giới của kinh tế Việt Nam đã tạo tiền đề quan trọng để thúc đẩy quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới suốt 30 năm qua. Năm 1993, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với 3 tổ chức quốc tế quan trọng (WB, IMF, ADB), và 2 năm sau đó (12-7-1995), Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa quan hệ. Cũng trong năm này, Việt Nam gia nhập ASEAN. Năm 1997, Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương và đến năm 2000, Việt Nam và Hoa Kỳ ký Hiệp định thương mại song phương (BTA). Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO, mở ra giai đoạn mới với thời cơ và thách thức đan xen. Năm 2015, Việt Nam kết thúc đàm phán TPP và gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Tính đến 2015, Việt Nam đã thiết lập quan hệ kinh tế - thương mại với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ và đã có 59 đối tác chính thức công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam.

Như vậy, có thể khái quát lại, sự kiểm chứng trên thực thế mô hình phát triển của Việt Nam phản ánh hình ảnh rõ nét những giá trị cốt lõi tự do, dân chủ, bảo đảm quyền con người và yêu chuộng hòa bình, thực hiện tinh thần là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tất cả những giá trị đó không có mục tiêu nào khác ngoài hướng tới mục tiêu duy nhất là vì hạnh phúc và tiến bộ của người dân Việt Nam.

3. Thời cơ và thách thức đối với mô hình phát triển của Việt Nam trước bối cảnh thế giới hiện nay

Xuất phát từ cục diện và bối cảnh thế giới ngày nay, trên cơ sở những thành công vừa qua, mô hình phát triển của Việt Nam đang có cơ hội lớn cho sự tiếp tục phát triển chủ yếu là:

Thứ nhất,mặc dù còn có những xung đột, chiến tranh cục bộ ở những khu vực địa lý nhất định, tuy nhiên, xét về tổng thể, xu hướng hòa bình, hợp tác cùng có lợi vẫn đang là dòng chảy chủ đạo trong điều kiện thế giới hiện nay. Thời cơ từ xu hướng này chính là ở chỗ tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho sự phát huy giá trị của mô hình phát triển của Việt Nam. Giá trị hòa bình, dân chủ, tự do, bảo đảm quyền con người tiếp tục được ủng hộ phát triển. Sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với tiến trình phát triển và sự chân thành của Việt Nam trong các quan hệ quốc tế được củng cố. Đây là thời cơ lớn cho việc phát triển của Việt Nam trong những thập kỷ tới.

Thứ hai, xu hướng thị trường thế giới tự do, tôn trọng các giá trị và sự khác biệt trong đa dạng là điều kiện để thực hiện hội nhập mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế. Việt Nam sẽ có cơ hội để tham khảo những thành công cũng như những thất bại của các mô hình kinh tế thị trường của các quốc gia đương đại. Quá trình này giúp nâng cao năng lực quản trị quốc gia của các chủ thể trong bộ máy nhà nước cũng như hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, tạo tiền để để mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN sớm trở thành hiện thực, đem lại sự ấm no hạnh phúc cho người dân.

Thứ ba,xu hướng dân chủ hóa đời sống chính trị quốc tế hiện nay tạo ra thời cơ để Việt Nam kế thừa những giá trị văn minh nhân loại trong hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, thông qua đó hoàn thiện mô hình phát triển của mình. Áp lực từ các chuẩn mực văn minh của thế giới sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch thực hiện chức năng nhà nước mệnh lệnh hành chính tiến đến nhà nước kiến tạo phát triển. Mặc dù mỗi nhà nước và chế độ chính trị có quyền độc lập riêng, song quá trình dân chủ hóa với tư cách là giá trị mà nhân loại đã phấn đấu nhiều thế kỷ để đạt được là kinh nghiệm tham khảo tốt cho các quốc gia có trình độ phát triển còn ở trình độ thấp như Việt Nam. Sự nỗ lực của các chủ thể trong xã hội nhằm tiến tới nền dân chủ đích thực do nhân dân, vì nhân dân, tinh thần dám nghĩ, dám làm, kiên định và kiên trì thực hiện sứ mệnh công vụ công chức vì lợi ích của người dân đang có cơ hội để thể hiện xét từ chính quá trình phát triển quốc tế ngày nay.

Thứ tư,quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của kinh tế tri thức đang mở ra cơ hội lớn cho sự giao lưu và tiếp biến văn hóa, thúc đẩy sự hình thành những giá trị văn hóa mới phù hợp với thời đại bên cạnh những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống, tạo môi trường hiểu biết tin tưởng lẫn nhau giữa các quốc gia. Xét từ mặt tích cực, quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra cơ hội cho các nền văn hóa, các giá trị và tư duy văn hóa của các quốc gia có điều kiện để thể hiện, bộc lộ nét đặc sắc của chúng trong cộng đồng quốc tế. Theo nghĩa đó, những quan niệm, hủ tục lạc hậu sẽ được loại bỏ nhanh hơn và thay thế vào đó là những giá trị tiến bộ, phù hợp với giá trị chung của loài người sẽ được phát huy và tôn vinh. Quá trình này một lần nữa, đến lượt nó tạo ra cơ hội để Việt Nam thể hiện bản sắc văn hóa của mình trước sự đa dạng về văn hóa của các quốc gia trong cộng đồng toàn cầu. Thông qua đó, mô hình phát triển của Việt Nam vì thế được bồi đắp thêm những giá trị tiến bộ, dân chủ hóa mới theo hướng tích cực.

Tuy vậy, trước những biểu hiện mới của thế giới hiện nay, mô hình phát triển của Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức rất lớn. 

Một là, sự biến đổi nhanh chóng và rất khó dự đoán trong các quan hệ lợi ích, những tính toán chiến lược của các quốc gia cũng như nguy cơ thường trực mất kiểm soát của hệ thống thị trường thế giới ngày nay tác động mạnh đến quá trình hoạch định chiến lược phát triển của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam. Tính khó dự báo của thị trường quốc tế sẽ làm giảm hiệu quả của mọi chiến lược kinh tế. Đi liền với xu hướng tự do kinh tế là xu hướng gia tăng sự bảo hộ, thực hiện chủ nghĩa bảo hộ mới, cạnh tranh khốc liệt trên thị trường toàn cầu làm cho hàng hóa, sản phẩm Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong xâm nhập vào chuỗi giá trị và phân công lao động quốc tế. Đây là thách thức mang tính chiến lược và dài hạn đối với quá trình hoàn thiện mô hình phát triển của Việt Nam, trước hết thách thức này gây khó khăn cho việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời gian tới. Tốc độ phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ làm gia tăng khoảng cách tụt hậu trong phát triển của Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Tuy đạt được những thành tựu được kiểm chứng nêu trên, năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực rất thấp đã và sẽ là rào cản cho tiến trình phát triển của Việt Nam xét từ trình độ phát triển của thế giới đương đại.

Hai là, các nguy cơ của an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, nạn buôn bán người, nguy cơ mất an ninh lương thực, an ninh năng lượng, dịch bệnh toàn cầu... làm giảm hiệu quả phát triển của bất kỳ mô hình phát triển nào và Việt Nam cũng sẽ không là ngoại lệ. Đặc biệt, Việt Nam được đánh giá là một trong 4 quốc gia chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu. Trên thực tế nền kinh tế Việt Nam đang chịu tác động nhanh hơn dự báo bởi những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu toàn cầu. Hiện tượng xâm nhập mặn do nước biển dâng đi liền với suy kiệt nguồn tài nguyên nước đang gây hậu quả nghiêm trọng đến sản xuất và an ninh lương thực của Việt Nam. Thách thức này đe dọa đến sự ổn định trong quy hoạch và phát triển của Việt Nam, phá vỡ những quy hoạch đã có, làm giảm tính hiệu quả của các quy hoạch phát triển mới. Từ đó làm cho đời sống của một bộ phận dân cư gặp nhiều khó khăn, đe dọa đến sự ổn định của xã hội và tiến trình dân chủ hóa đời sống xã hội, làm cho sự nỗ lực đạt tới mục tiêu phát triển bền vững càng khó khăn hơn. Thêm vào đó, những chuẩn mực cao của hệ thống các thể chế quốc tế mà Việt Nam tham gia cũng là thách thức lớn đối với cơ cấu sản xuất còn rất lạc hậu trong mô hình phát triển của Việt Nam.

Ba là, chủ nghĩa khủng bố, các phong trào tôn giáo cực đoan đe doạ đến môi trường hòa bình và phát triển của thế giới nói chung, gây khó khăn hơn đối với việc xác lập các quan hệ thiết thực với các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Sự bất ổn về chính trị của nhiều quốc gia trong thế giới hiện nay là rào cản để hiểu biết lẫn nhau sâu sắc hơn, niềm tin chiến lược nhiều khi bị suy giảm gây ra nhiều hệ lụy đối với sự phát triển ổn định của cộng đồng quốc tế, thực tế này cũng làm cho mô hình phát triển của Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ, thách thức này tác động trực tiếp đến tiến trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội.

Bốn là, hiện tượng có quốc gia không tôn trọng luật pháp quốc tế, mưu toan độc chiếm biển Đông, thực hiện quân sự hóa các bãi đá nhân tạo đe dọa đến lợi ích chính đáng, tự do hàng hải, hàng không của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, chủ quyền không thể tranh cãi, toàn vẹn lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam đang là thách thức nghiêm trọng đối với mô hình phát triển của Việt Nam hiện nay. 

Cũng như mọi quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế, nghèo đói, kém phát triển không phải là định mệnh mà chính là ở chỗ các quốc gia đó có tìm kiếm được mô hình phát triển phù hợp cho mình hay không, Việt Nam với mô hình phát triển mang những giá trị cốt lõi tự do, dân chủ, bảo đảm quyền con người và yêu chuộng hòa bình thể hiện trên các trụ cột căn bản là kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền hướng tới chức năng kiến tạo phát triển, văn hóa tiên tiến và không ngừng dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, thực sự đã được kiểm chứng theo thời gian và chứng tỏ đây là mô hình phát triển phủ hợp nhất trong tiến trình phát triển của đất nước trước bối cảnh quốc tế hiện nay. Những thành tựu phát triển mà người dân Việt Nam đã thực sự được trải nghiệm và thụ hưởng là minh chứng rõ nhất cho sự phù hợp đó. Với sự ủng hộ và hợp tác cùng có lợi của cộng đồng quốc tế, chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng, sự phát triển của Việt Nam sẽ có ý nghĩa tích cực đối với tiến trình phát triển vì hòa bình, thịnh vượng và tiến bộ xã hội của thế giới chúng ta.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2016

(1) Tổng Cục thống kê Việt Nam, 2015.

 

GS, TS Tạ Ngọc Tấn

Nguyên Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền