Trang chủ    Thực tiễn     Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ tư, 02 Tháng 3 2016 15:21
4958 Lượt xem

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

(LLCT) - Thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế và chuyển đổi cơ chế từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Trong 15 năm đầu, công cuộc đổi mới đã tiến hành sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, từng bước giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tháo gỡ vướng mắc, xoá bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh, bền vững. CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.

Từ Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì tất yếu phải có sự thay đổi về thể chế kinh tế. Do đó, Đảng đã quán triệt quan điểm hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN - đây là chìa khoá mở đường cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. 

Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới trên nhiều lĩnh vực, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã có sự chuyển biến tích cực, góp phần đưa đến những thành tựu trong phát triển kinh tế:

Tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,5% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; đường lối gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là kết quả trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo; đời sống nhân dân được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Công tác xây dựng Đảng đạt kết quả tích cực. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp CNH, HĐH phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đang đẩy mạnh. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng trên, nhưng tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn bộc lộ những hạn chế: tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu.

Trước những kết quả đạt được và những hạn chế, Đại hội X của Đảng (2006) đã đưa ra một trong những hướng quan trọng là: “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức” và nhấn mạnh: “Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta”. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; hoàn thiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%; Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao, trong 5 năm 2006 - 2010, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 146,8 tỷ USD, gấp 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân đạt khoảng 13,8 tỷ USD (vượt 17,5%). Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao có bước phát triển.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. Giai đoạn 2006 - 2010, tăng hơn 2,3 lần về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.

Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tiếp tục được khẳng định ở Đại hội XI, với quan điểm: Để xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, phải tiếp tục đổi mới toàn diện với chất lượng và hiệu quả cao hơn; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vượt qua những khó khăn, thử thách của tình hình quốc tế và trong nước, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì ổn định và có bước phát triển.

Năm 2014, tất cả các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam đều tăng khá, với mức tăng GDP cả năm đạt 5,6% - 5,8%. Ngành nông nghiệp, năng suất và sản lượng cây trồng đều tăng. Ngành công nghiệp, tính chung 11 tháng so cùng kỳ năm 2013, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,5% (so với mức tăng 5,6% của cùng kỳ năm trước) và tăng liên tục, ổn định qua các quý (quý I tăng 5,3%, quý II tăng 6,9%, quý III tăng 7,8%). Du lịch trong 11 tháng đã đón 7.217 nghìn lượt khách quốc tế, tăng 5,4%  so với cùng kỳ năm trước. Tổng thu ngân sách nhà nước cũng được cải thiện nhờ kinh tế khá thuận lợi và tích cực chống chuyển giá, giảm thất thu thuế, theo đó, tính đến
15-11-2014 tổng thu ngân sách nhà nước đạt 759,7 nghìn tỷ đồng, bằng 97,1% dự toán năm. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 20-11-2014 thu hút 1.427 dự án được cấp phép mới; tổng vốn đăng ký 13.410,7 triệu USD, tăng 21,4% về số dự án và giảm 2,7% về số vốn so với cùng kỳ năm 2013.

Thị trường tài chính và thị trường bất động sản có những chuyển biến tích cực hơn so với nhiều năm trước, năm 2014 là một năm yên tĩnh và khá thành công cho ngành tài chính - ngân hàng. Lạm phát thấp và môi trường đầu tư được cải thiện, mức CPI bình quân 11 tháng - tức mức lạm phát - là 4,3%. CPI thấp góp phần cải thiện mức sống thực tế của người dân (trong tháng 11-2014, so với cùng kỳ năm 2013, số hộ thiếu đói giảm 77,5%; số nhân khẩu thiếu đói giảm 77,1%).

An sinh xã hội được đảm bảo, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm 2014 là 4.304 tỷ đồng.

Có thể khẳng định: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế Việt Nam, song những năm qua cũng còn nảy sinh nhiều vấn đề bất cập cần tiếp tục hoàn thiện, đó là: Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải thiện, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước. Năng suất lao động xã hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực; tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm; cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý; đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất thoát, lãng phí, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí. Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời. Trình độ phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu hướng mở rộng; Những yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, các nông, lâm trường quốc doanh chậm, lúng túng. Chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng  sản còn yếu, gây lãng phí, thất thoát lớn. Vấn đề tiêu thụ sản phẩm ổn định cho nông dân còn nhiều bất cập, vẫn xảy ra tình trạng được mùa mà vẫn không có thu nhập cao. Quản lý thị trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài chính, có lúc còn lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm giàu bất chính cho một số người; chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa thật sự là khâu đột phá cho phát triển kinh tế xã hội. Cải cách hành chính và hoàn thiện hệ thống luật pháp chưa theo kịp yêu cầu. Kỷ luật kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm, chưa có chính sách đủ mạnh để phát triển nhanh và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao. Chất lượng giáo dục đại học và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa đạt chỉ tiêu đề ra, lao động có chứng chỉ, bằng cấp còn thấp. Ứng dụng khoa học - công nghệ còn chậm.

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy phát triển kinh tế, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh; nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, chú trọng việc nâng cao năng lực cạnh tranh cả ở 3 cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và từng mặt hàng.

Hai là, cần sớm triển khai Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 (theo Quyết định 339/QĐ-TTg ngày 19-2-2013 của Thủ tướng Chính phủ), với sự chỉ đạo tập trung thống nhất.

Ba là, nghiên cứu đề ra các chính sách phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, sử dụng có hiệu quả ODA và kiên quyết loại bỏ các dự án FDI không mang lại lợi ích quốc gia. Điều chỉnh cơ cấu FDI theo hướng tăng tỷ trọng dòng vốn vào các ngành sản xuất, đầu tư phải đi kèm với tăng năng lực sản xuất, tạo lợi thế xuất khẩu, tăng cường sự tham gia của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Bốn là, ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích tiết kiệm nội địa, thu hút đầu tư từ mọi nguồn vào phát triển kết cấu hạ tầng, các ngành, lĩnh vực, tháo gỡ các ách tắc, yếu kém của nền kinh tế, vùng sâu, vùng xa, các trung tâm công nghiệp lớn, các dự án tạo nhiều việc làm. Các tiêu chí thẩm định dự án phải gắn với chất lượng và tính bền vững của dự án, trách nhiệm xã hội của nhà đầu tư.

Năm là, chính sách tỷ giá phải bảo đảm duy trì khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế và thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong quản lý giá, phân bổ nguồn lực, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và vận hành hiệu quả các loại thị trường.

Sáu là, có cơ chế chính sách bảo đảm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường hiệu quả đào tạo, chú trọng các nhóm yếu thế; nâng cao tính cạnh tranh của lao động Việt Nam; chú trọng phát triển việc làm; hỗ trợ người lao động tiếp cận hệ thống an sinh xã hội; đa dạng hóa và phát triển có hiệu quả các chương trình an sinh xã hội đối với các nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Bảy là, hoàn thiện cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho việc thực hiện đồng bộ, toàn diện và hiệu quả các chương trình, dự án giảm nghèo; tạo cơ hội cho hộ nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về hạ tầng phục vụ sản xuất xuất khẩu, đất đai, tín dụng, dạy nghề, tạo việc làm, khuyến nông - lâm - ngư, tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời có cơ chế chính sách điều tiết phân phối để thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng chính sách, người nghèo và bảo đảm an sinh xã hội.

Tám là, hoàn thiện cơ chế chính sách, luật pháp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hướng tới sản xuất những sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường và có những đối sách để chiến thắng trong hội nhập và phát triển. Có cơ chế chính sách khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp, bảo đảm tiêu thụ sản phẩm bền vững cho nông dân.

Chín là, tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tập trung cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực hiệu quả. Tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính, thanh tra kiểm tra, nâng cao hiệu lực hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật.

Thực hiện tốt những giải pháp trên sẽ góp phần vào việc hoàn thiện môi trường thể chế, mở đường cho sự phát triển mạnh hơn của đất nước trong những năm tới.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2015

Tài liệu tham khảo

1. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

2. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

3. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

4. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII, cập nhật ngày 20-10-2014, http://www.chinhphu.vn

 

ThS Nguyễn Văn Thanh

Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển nhà Hà Nội

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền