Trang chủ    Bài nổi bật    Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nước Pháp năm 1946
Thứ năm, 18 Tháng 5 2017 17:02
10280 Lượt xem

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nước Pháp năm 1946

(LLCT) - Sau khi Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 được ký kết, tình hình nước ta vẫn căng thẳng vì lời nói của các phần tử hiếu chiến trong Chính phủ Pháp hoàn toàn đi ngược lại với hành động. Cuộc đàm phán của hai phái đoàn Pháp - Việt tại Đà Lạt cũng không đem lại kết quả. Chính phủ ta quyết định cử một phái đoàn do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn cùng 11 thành viên sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau. Ngày 24-3-1946, trong buổi gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại vịnh Hạ Long, Cao ủy Pháp D’Argenlieu đã chuyển lời mời của Chính phủ Pháp mời Người sang thăm Pháp với tư cách là Thượng khách của Chính phủ Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận lời và cử Đỗ Đình Thiện và Vũ Đình Huỳnh đi cùng.

Rất nhiều ý kiến đề nghị Người dừng chuyến đi vì lý do an toàn, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ thái độ bình tĩnh và kiên quyết không thay đổi ý định của mình với lời giải thích: Trong Chính phủ Pháp hiện có Đảng Cộng sản tham gia, ta có thể tin vào sự giúp đỡ của Đảng bạn. Sang Pháp cũng là dịp tốt để đề cao vị trí của Việt Nam, tranh thủ tình cảm của nhân dân Pháp và thế giới. Đặc biệt, cộng đồng người Việt ở Pháp cũng là một chỗ dựa tin cậy vì vẫn thường xuyên giữ mối liên hệ, có tinh thần yêu nước và đoàn kết, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của ta.

Từ sáng sớm ngày 31-5-1946, một rừng cờ hoa của hàng vạn nhân dân Thủ đô đi tiễn Người. Tướng Salan cùng hai nhân viên làm nhiệm vụ tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp ghi lại trong hồi ký: “Chúng tôi gặp nhau ở sân bay Gia Lâm. Trời vẫn mưa. Một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn bộ binh số 6 cùng đại tá Trung đoàn trưởng mang theo quân kỳ và đội quân nhạc bồng súng chào. Chủ tịch chào lại khá lâu. Khi hai chiếc Dakota cất cánh, khăn tay ở trên và ở dưới mặt đất cùng vẫy lên tíu tít giữa tiếng hoan hô và động cơ nổ ầm vang...”. Máy bay cất cánh đi Rangoon (Miến Điện), qua Calcuta - Agra (Ấn Độ), Karachi (Pakistan), Habegna (Iraq), Cairo (Ai cập) và Biskra (Angiêri) rồi đến Biarrits (Pháp), nghỉ tại đây 10 ngày trước khi đi Paris.

16 giờ 15 ngày 22-6, sân bay Bourget đông nghịt người, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng ngang hàng cùng quốc kỳ Pháp, đôi mắt Bác sáng lên long lanh, xúc động nhìn lá cờ đỏ sao vàng đang tung bay. Sau lễ chào cờ và duyệt đội danh dự, trước khi lên ô tô, Người nói với phóng viên Hãng thông tấn AFP: “Tôi rất lấy làm hài lòng được đặt chân lên một đất nước đã chịu đau khổ nhiều vì lý tưởng và tự do. Cảm ơn Chính phủ và dân chúng Pháp tiếp đón tôi một cách long trọng. Mong sau này hai dân tộc Pháp và Việt Nam cộng tác một cách bình đẳng, thật thà và thân thiện”.

Lễ đón chính thức Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra 10 ngày sau đó và kéo dài trong 3 ngày theo các nghi thức truyền thống đối với các nguyên thủ quốc gia. Ngoài các cuộc hội đàm, tiếp xúc chính thức với các thành viên Chính phủ Pháp, Người còn đi thăm một số di tích lịch sử văn hóa ở Paris. Người đi thăm Normandie, nơi quân Đồng minh đổ bộ mở mặt trận thứ hai chống phát xít và giải phóng nước Pháp, cùng đi có Sainteny, Cao ủy Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Kiều bào ta ở Paris rất vui mừng chào đón vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Các đoàn đại biểu trí thức, gồm các bác sỹ, kỹ sư, luật sư, họa sỹ đều mong muốn được gặp và nói chuyện với Bác Hồ. Một số người tha thiết xin được theo Người trở về phục vụ Tổ quốc. Ngày đầu tiên Người đến ở khách sạn Royal Monceau, 60 cháu thiếu nhi, nhi đồng theo cha mẹ đến chào Bác Hồ, phần lớn các cháu không nói được tiếng Việt nhưng đều biết hát Tiến quân cavà nói được câu Hồ Chủ tịch muôn năm. Một Việt kiều quê ở Thanh Hóa, làm nghề thợ may xin được gặp Người để trình bày một nguyện vọng riêng, anh nói: “Thưa, cháu có hân hạnh cùng đoàn đại biểu Việt kiều đi đón Bác ở sân bay. Cháu nhận thấy những quan khách của Pháp ra đón đoàn ta đều ăn mặc rất sang trọng, đúng lễ nghi quốc tế. Lúc đoàn ta bước xuống, cháu thấy Bác mặc bộ đồ ka ki đại cán quá đơn sơ, khiến suốt đêm cháu không ngủ được. Hôm nay cháu xin phép Bác cho cháu được may đo gấp cho Bác vài bộ đồ lớn để mặc với thiên hạ!”. Người tươi cười ôm lấy người thợ may: “Tôi xin cảm ơn tấm lòng tốt của chú đối với đất nước cũng như đối với tôi. Tôi nói thật với chú, toàn dân ta đang nỗ lực chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập tự do. Đồng bào ta đã hy sinh và còn phải hy sinh nhiều nữa cho tới khi nào thắng lợi hoàn toàn. Dân ta còn phải cần kiệm hơn nữa để vượt qua khó khăn về mọi mặt. Tôi nhận thấy chúng tôi ăn mặc như thế này cũng còn hơn bà con trong nước nhiều lắm rồi...”. Nghe vậy, mọi người đều rưng rưng nước mắt.

Một trong những thành công lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Paris là đã nối lại quan hệ gắn bó với Đảng Cộng sản Pháp và những người đồng chí cũ, kết giao thêm nhiều bạn bè mới ủng hộ Việt Nam, tạo ấn tượng sâu sắc về một đất nước mới độc lập.

Trong thời gian Người đến ở tại gia đình ông bà Aubrac tại ngoại ô Paris, có ông già làm vườn chuyên cung cấp hoa cho gia chủ. Một lần, cùng ông bà Aubrac đến thăm ông già làm vườn, Người giải thích về ý nghĩa văn hóa của màu cờ Việt Nam vô cùng giản đơn mà sâu sắc: Đó là màu đỏthắm của hoa đào miền Bắc và hoa mai vàng miền Nam! Sau đó, ông già làm vườn thường xuyên mang những bó hoa thược dược đỏ và vàng đến biếu Người nhưng nhất định không chịu nhận tiền công.

Những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp đều được các cơ quan báo chí, hãng thông tấn, đài phát thanh đưa tin, phản ánh, dư luận Pháp quan tâm theo dõi trong không khí sôi động, nhiệt thành. Vốn là một nhà báo lão luyện, Người rất coi trọng những buổi trả lời phỏng vấn hoặc tiếp chuyện báo giới. Các nhà báo phương Tây phỏng vấn Người đủ mọi chuyện. Có nhà báo hỏi: “Chủ tịch có đưa nước mình theo chủ nghĩa cộng sản không?”, Người trả lời: “Tôi nghiên cứu các trường phái triết học và thấy rằng nhiều lãnh tụ lên cầm quyền rất thương dân và mong muốn cho dân sung sướng, ngay chúa Giêsu cũng nói: Mọi người phải thương yêu đùm bọc nhau. Thế nhưng còn chiến tranh thì còn đau thương tang tóc. Nên con đường mà nhân dân chúng tôi đi là làm sao để không có những đau thương tang tóc đó, là để có độc lập, tự do”. Nữ nhà báo, thi sĩ, phóng viên của báo Nhân ĐạoFranxoa Coredo được Người tiếp đầu tiên ở Paris. Khi cuộc họp báo kết thúc, Người căn dặn: “Cô tự coi mình là người của báo Nhânđạomà viết bài. Chỉ có điều là cô hiểu thế nào thì viết mình hiểu như thế, chứ không viết là mình nghe thấy thế!”, rồi Người đứng dậy cầm một bông hoa hồng trên bàn tặng Coredo (nhà báo nữ duy nhất tại đó). Phóng viên báo Regardđã chớp được cảnh này và ngay hôm sau cho đăng ảnh trang đầu với lời chú thích hóm hỉnh: “Bốn mươi năm đấu tranh cách mạng màvẫn lịch thiệp như thường”.

Ông Đỗ Đình Thiện viết trong Nhật ký: “Ngày 12-7-1946, lần này là lần thứ hai Hồ Chủ tịch triệu tập tất cả các nhà báo (từ cực tả đến cực hữu). Cũng tiệc trà bánh ngọt nhưng đơn giản hơn lần trước và do một số kiều bào ở Paris hợp tác với khách sạn tổ chức và tiếp khách. Hồ Chủ tịch đọc tờ tuyên bố chia thành 4 mục với các nhà báo và nói: Bây giờ các ngài có muốn hỏi gì, xin cứ hỏi, câu nào tôi có thể trả lời được, xin sẵn lòng trả lời. Được Chủ tịch cho phép tự do phỏng vấn, các nhà báo dồn dập đưa những câu hỏi xưa nay họ vẫn thắc mắc hoặc muốn thử thách xem một vị Chủ tịch nước dân chủ cộng hòa mới trả lời những vấn đề gai góc của họ thế nào? Nhà báo hỏi: Nếu như xứ Nam Bộ tự ý muốn tách khỏi nước Việt Nam thì Ngài tính sao? Chủ tịch đáp: Sao lại có chuyện như thế được. Chúng tôi cùng nói một thứ tiếng, cùng một tổ tiên, phong tục cũng một, tất nhiên chúng tôi là anh em ruột thịt! Nhà báo hỏi: Thưa Chủ tịch, Ngài nói vậy chứ người Anh và người Mỹ họ chả nói cùng một thứ tiếng, vậy mà họ có nhập vào một nước đâu? Chủ tịch đáp: Nhưng một đại trùng dương cách biệt họ. Ngài đã vừa lòng về câu hỏi ấy chưa? Nhà báo hỏi: Chúng tôi nghe nói Ngài đấu tranh trong vòng bí mật đã 40 năm, việc ấy có thật không, thưa Chủ tịch? Chủ tịch đáp: Đúng thế! (mọi người đều cười, không khí trở nên nhẹ nhàng hơn). Nhà báo hỏi: Chúng tôi còn nghe thấy nói Chủ tịch khi xưa bị cầm tù ở Hồng Kông và Singapore, việc ấy có thực không? Chủ tịch đáp: Đúng sự thực! Nhà báo hỏi tiếp: Ngài còn bị cầm tù ở đâu nữa không và bao nhiêu lần? Chủ tịch đáp: Khắp mọi nơi và mỗi nơi một ít (mọi người lại cười xòa)! Một nữ phóng viên hỏi: Thưa Chủ tịch, địa vị và quyền hạn của phụ nữ Việt Nam so với nam giới thế nào? Chủ tịch đáp: Bình đẳng, bình quyền. Phụ nữ nước chúng tôi cũng được tham dự chính quyền. Cứ 18 tuổi trở lên là có quyền bầu phiếu! Nữ phóng viên hỏi tiếp: Xin đặt câu hỏi thứ hai và là cuối cùng! Dưới chế độ Pháp thuộc trước đây ở nước Ngài có nhiều điều nhầm lẫn và lạm dụng, chẳng hay sau này dân tộc Việt Nam có thể quên được những việc ấy mà thân thiện với người Pháp không? Chủ tịch đáp: Chúng tôi tranh đấu chống lại một chế độ, chứ không chống lại một dân tộc!”.

Hơn ba tháng ở nước Pháp, nhất là thời gian ở Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã  có những hoạt động ngoại giao rất phong phú, đa dạng. Người gặp gỡ, nói chuyện với đại diện hầu hết các chính đảng lớn, những tổ chức chính trị và đoàn thể quan trọng. Người dành nhiều thời gian tiếp xúc rộng rãi với các nhân vật trọng yếu trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, kỹ thuật để nói cho họ hiểu tình hình và chính sách của ta, từ đó họ thông cảm và ủng hộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Người cũng đặc biệt chú ý và tranh thủ tình cảm của giai cấp công nhân Pháp. Trong chuyến tàu hỏa tốc hành rời Paris đến Marseille dài hơn 1000km, đoàn tàu phải chạy suốt ngày đêm để kịp đến cảng lúc 8h sáng. Các quan chức Pháp tiễn Bác và anh em cùng đi ra tận ga tàu. Trước khi vào phòng danh dự, trong sự ngạc nhiên của mọi người, Người xin lỗi đi đến đầu tàu “chào một người bạn”. Người đến đầu máy gặp anh em thợ máy, thăm hỏi và cảm ơn làm anh em quá ngạc nhiên và xúc động khi một Chủ tịch nước vẫn nhớ tới những người công nhân bình thường. Lúc Người bắt tay tạm biệt, anh lái tàu lúng túng: “Xin lỗi ngài Chủ tịch nước, tay chúng tôi lấm lem dầu mỡ, bẩn lắm ạ!”. Bác nói từ tốn: “Không sao cả. Tay của anh tuy bẩn nhưng tấm lòng của anh trong sạch. Anh là công nhân và đã đưa chúng tôi đi rất an toàn”. Tất cả các quan chức Pháp và mọi người có mặt đều xúc động trước tấm lòng nhân hậu và tinh thần đoàn kết quốc tế rộng mở của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hội nghị Fontainebleau bế tắc rồi thất bại. Phái đoàn Việt Nam trở về nước nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nán lại. Quyết định này làm cho mọi người lo lắng bởi Người không còn là thượng khách nữa, phe thực dân hiếu chiến có thể trở mặt (như trường hợp của Quốc vương Marốc và Tổng thống Angiêri bị bắt giữ). Nhưng Người vẫn tự tin nói: “Đảng Cộng sản Pháp lúc này cũng có vai vế lắm, các đồng chí ấy không để chúng nó tùy tiện hại ta đâu”. Những cuộc hội đàm mật giữa Người và Mute, Bộ trưởng hải ngoại Phápvẫn tiếp tục. Cho đến 1h sáng ngày 15-9 (giờ Paris), Người ký với Mute một văn bản mang tên Tạm ước 14-9đúng với chủ trươnghòa để tiến và ta có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến lâu dài.

Sau ngày ký Tạm ước, Người bàn với anh em về nước bằng tàu thủy, có người thắc mắc sao không đi máy bay cho nhanh thì Người giải thích: “Không nên đi máy bay, có thể nguy hiểm. Đi tàu thủy có cả các thuỷ thủ, Pháp không thể làm bậy. Các chú báo với họ, nói Chủ tịch chúng tôi mệt, không đi được máy bay là xong”. Ông Đỗ ĐìnhThiện viết trong nhật ký: “Ngày 16-9-1946, đoàn xe hơi đi ra ga Lyon. 7giờ 50 tới ga. Trên xe bước xuống qua cửa ga, kiều bào đã đứng đặc dàn ra hai bên. Ba lần khẩu hiệu: Hồ Chí Minh muôn năm! vang dậy trong ga. Cụ tiến bước đến sân ga để lên xe lửa thì một số kiều bào, bạn Pháp đi theo (đến năm, sáu trăm người) để tiễn chân Cụ, còn một số rất đông kiều bào phải ngừng lại ở cửa, không vào sân ga được vì sợ đông quá, rối trật tự. Đi một quãng lại có những bạn đón ngăn lại bắt tay chúc Cụ lên đường. Còn kiều bào hát quốc ca chào đón. Đến chỗ toa xe lửa đặc biệt dành riêng cho Tổng thống Pháp, Cụ đứng lại cảm ơn các quan khách, các Thượng thư Chính phủ Pháp, những ông nghị viên, ẵm và hôn những cháu nhi đồng và nhắn nhủ đồng bào lần chót trước khi rời Paris. Đoàn kết và kỷ luật là hai khẩu hiệu Cụ dặn lại anh chị em kiều bào đi tiễn Cụ. Nước mắt chạy quanh, những tiếng nức nở, sụt sùi của kiều bào đáp lại lời căn dặn của Hồ Chủ tịch. Điệu hát Hồ Chí Minh muôn năm vang dậy khi Chủ tịch bước chân lên xe... 8 giờ kém 5 phút đến Avignon, có đoàn đại biểu kiều bào công binh hơn trăm người đón chờ. Chủ tịch rời khỏi bàn ăn vừa bắt đầu, đứng trên toa nói chuyện với kiều bào, giải thích về công việc ký Tạm ước với Chính phủ Pháp cho anh em nghe. Anh em đều hoan hô, bày tỏ ý kiến và tỏ lòng tín nhiệm, sẵn sàng chờ đợi mệnh lệnh của Hồ Chủ tịch. Anh em rất lấy làm băn khoăn, không được tham gia vào những giai đoạn khó khăn và oanh liệt ở nước nhà… Đến Marseille hồi 9 giờ 15. Đã đông nam nữ kiều bào chờ đợi ở ga. Ngó biết có Chủ tịch ngồi trong toa đặc biệt đều xôn xao chạy theo đến cửa xe đón tiếp. Kiều bào phái đại biểu lên xe đón mừng Chủ tịch và một phụ nữ ẵm cả con mới sinh vài tháng đi đón Cụ Hồ. Đến chỗ nào có kiều bào, cũng một cảnh mừng mừng tủi tủi, kính mến và thân yêu. Cụ xuống xe nói chuyện với kiều bào độ 10 phút thì từ biệt sang chỗ khác. Đoàn đại biểu kiều bào chào đón Cụ, dâng hoa và tặng một cây cờ Việt...”.

Ngày 18-9-1946, chiến hạm Dumont d’ Urville kéo còi rời quân cảng Toulon, đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh và hai tùy tùng cùng bốn trí thức Việt kiều về nước là: Võ Quý Huân, Trần Hữu Tước, ­­Vũ Đình Quỳnh, Phạm Quang Lễ. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay, lướt sóng tiến lên, để lại phía sau một nước Pháp đầy toan tính...

______________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2016

Tài liệu tham khảo

1. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử,t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

2. Bác Hồ sống mãi với chúng ta,t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

3. Chuyện kể về Bác Hồ,t.2, Nxb Nghệ An, 2000.

4. Đỗ Đình Thiện: Cuộc đời và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam,Nxb Tài chính, 2007.

5. Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ,Nxb Công an nhân dân, 2003.

 

Đỗ Hoàng Linh

Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền