Trang chủ    Thực tiễn    Vai trò của thể chế trong phát triển
Thứ tư, 24 Tháng 9 2014 10:37
11916 Lượt xem

Vai trò của thể chế trong phát triển

(LLCT) - Trong tác phẩm nổi tiếng Tại sao các quốc gia thất bại? (Why nations fail) xuất bản tháng 2-2012, với những minh chứng từ lịch sử phát triển của các quốc gia từ Hoa Kỳ, Anh, Đức cho đến châu Phi - hạ Sahara, Trung Mỹ và Nam Á, hai chuyên gia đầu ngành về phát triển Daron Acemoglu và James Robinson đã phân tích rất thuyết phục rằng một quốc gia giàu, nghèo không phải là do điều kiện địa lý, văn hóa,… mà cái tạo ra sự khác biệt chính là thể chế.

 

Công trình nghiên cứu của IQbal, Jong Ilyou (2001) đã tiến hành khảo sát 150 quốc gia trong thời kỳ 1960 - 1980 cho thấy các nước có chế độ chính trị mở cửa cao đã đạt mức tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm 2,5 - 3% so với những nước có nền kinh tế thiếu dân chủ và đóng cửa với bên ngoài. North (1990) nghiên cứu thực tế nền kinh tế dân chủ, đã đi đến kết luận là thể chế dân chủ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một chính quyền tốt, hạn chế tham nhũng; thúc đẩy phát triển kinh tế hiệu quả; bảo đảm môi trường kinh tế tự do hơn. Dựa trên những kết quả nghiên cứu này, một số tổ chức quốc tế đã đưa ra một số giải pháp tư vấn và hỗ trợ các nước nghèo như: ưu tiên hàng đầu không phải là cải cách dân chủ ngay tức thì, mà là phải cải cách thể chế hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành cải cách chính trị theo hướng dân chủ đồng thời với chính sách kinh tế. Nóng vội cải cách chính trị trước sẽ đưa tới thất bại trong chính sách kinh tế, nước Nga dưới thời Elsin làm Tổng thống là một ví dụ(1).

Ngược dòng lịch sử, ý tưởng về sự phồn vinh của một xã hội phụ thuộc vào các thể chế kinh tế, ít nhất đã được Adam Smith đề cập trong các cuộc thảo luận về chủ nghĩa trọng thương và vai trò của thị trường, và nổi bật hơn với luận điểm xã hội thành công về kinh tế khi họ có được thể chế kinh tế tốt.

Các nhà khoa học Việt Nam cũng cho rằng: để Việt Nam phát triển toàn diện, bền vững trong bối cảnh hiện nay thì cải cách thể chế là vô cùng cần thiết, đó là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để tăng cường nội lực, thực hiện đoàn kết, bảo vệ đất nước, và phát triển bền vững(2).

Những khái lược trên cho thấy sự ghi nhận một cách rõ ràng vai trò quyết định của thể chế đối với phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Đồng thời, trên thực tế, mọi quốc gia đều tồn tại và vận hành trên cơ sở một nền tảng thể chế nhất định, song không phải quốc gia nào cũng có được thể chế hữu hiệu. Do vậy, hướng đến một thể chế hữu hiệu là kỳ vọng và mục tiêu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, những nhận thức một cách rõ ràng, đầy đủ về thể chế dường như là vấn đề “mơ hồ” trên phương diện nhận thức xã hội phổ biến ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển và lý luận về thể chế nói chung và các thể chế khác (thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế hành chính…) rất phong phú và được phát triển dựa trên nhiều tư tưởng, nhiều học thuyết, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, nhưng cho đến nay vẫn đang được hoàn thiện.

Cho đến nay đã có những cách thức khác nhau ghi nhận vai trò của thể chế đối với phát triển, chẳng hạn ghi nhận vai trò của từng loại thể chế (thể chế hành chính, thể chế chính trị, thể chế kinh tế …) đối với phát triển hoặc ghi nhận vai trò của thể chế đối với từng lĩnh vực phát triển cụ thể (tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội...) và cũng có những ghi nhận về vai trò của thể chế đối với sự thịnh vượng của một quốc gia, nhưng chưa có những ghi nhận ở mức độ tổng quát nhất về thể chế đối với phát triển của một chỉnh thể quốc gia.

Bằng những kiểm nghiệm lịch sử phát triển của các quốc gia và với tư cách là những nguyên tắc xác định mối quan hệ xã hội; định hình cách thức ứng xử của các thành viên trong xã hội và điều chỉnh sự vận hành xã hội. Thể chế của một quốc gia, vùng lãnh thổ có những vai trò chủ yếu sau:

Thứ nhất, thể chế đóng vai trò định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức, vận hành xã hội.

Xuyên suốt lịch sử phát triển nhân loại, có thể thấy mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi vùng lãnh thổ có những cách thức hình thành, phát triển khác nhau, nhưng để duy trì sự tồn tại và phát triển đó, tất cả mọi chính thể này đều xác lập và sử dụng “công cụ thể chế” để tổ chức, vận hành xã hội.

Bởi xét đến cùng, không chỉ một chính thể quốc gia, mà ngay bản thân một tổ chức, một nhóm xã hội… để hình thành, trước hết cũng cần có một khung khổ, điều lệ để hình thành, rồi cũng cần có luật lệ, quy tắc để tổ chức và vận hành - nghĩa là phải có thể chế, điều đó chứng tỏ rằng vai trò hàng đầu của thể chế là định hướng mục tiêu, hướng dẫn hành vi và tiếp đến là tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức vận hành xã hội, vận hành hoạt động của tổ chức. Ngoài ra, thể chế còn có tác dụng xác lập địa vị của các chủ thể, trên cơ sở đó hướng dẫn hành vi ứng xử trong mối quan hệ qua lại của các chủ thể, giúp các chủ thể nhận biết được chức trách của mình để có những cách thức ứng xử trong quan hệ và thực hiện nhiệm vụ một cách phù hợp.

Thứ hai, thể chế kiến tạo nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia.

Thể chế xác lập và định hình khung khổ chung cho mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, theo đó những nền tảng xã hội căn bản này vận hành hiệu quả hay không phụ thuộc quyết định bởi chất lượng và hiệu lực thể chế, hay nói cách khác đó là sự phù hợp của thể chế.

Thể chế được coi là phù hợp cho một quốc gia bao gồm một hệ thống pháp luật đáng tin cậy, ghi nhận và bảo hộ các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể xã hội, một cơ chế giữ gìn công lý đáng tin cậy giúp giải quyết các tranh chấp cũng như một chính quyền minh bạch, đáng tin cậy, mọi hành vi can thiệp, điều tiết của Nhà nước tổ chức và vận hành xã hội, có tính tiên liệu và khả thi.

Bởi vậy, một quốc gia có nền tảng thể chế tốt, có nghĩa là quốc gia sẽ có một môi trường chính trị - xã hội ổn định để hoạt động của mọi thành viên xã hội được tiến hành một cách thuận lợi, thêm nữa, khi một quốc gia, vùng lãnh thổ xác lập được thể chế hữu hiệu, tất yếu quốc gia, vùng lãnh thổ đó có được những công cụ hữu ích để chủ thể Nhà nước có thể điều tiết một cách có hiệu quả vận hành xã hội, đồng thời căn cứ vào nền tảng thể chế đã có mà mỗi chủ thể trong xã hội đều có thể hoàn thành một cách hợp lý nhất những quyền và nghĩa vụ của mình đối với tổ chức, với xã hội.

Năm 2010, một công trình nghiên cứu được tiến hành ở một loạt quốc gia châu Á, dưới sự bảo trợ của ABD đã chứng minh một cách thuyết phục rằng chất lượng thể chế, được đo lường bởi hiệu quả của hoạt động của chính quyền, chất lượng của chính sách và pháp luật cũng như mức độ thực thi chế độ pháp quyền đã liên quan trực tiếp đến phát triển quốc gia nói chung, phát triển kinh tế nói riêng, tạo công bằng và chống tham nhũng.

Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, một số tổ chức quốc tế đã đưa ra giải pháp tư vấn và hỗ trợ các nước nghèo như: ưu tiên hàng đầu không phải là cải cách dân chủ ngay tức thì, mà là phải cải cách thể chế hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành cải cách chính trị theo hướng dân chủ đồng thời với chính sách kinh tế.

Thứ ba, thể chế đóng vai trò chủ thể quản lý xã hội và xác lập các công cụ quản lý xã hội hữu hiệu.

Thể chế là sản phẩm “tinh thần” của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, nó được xây dựng nhằm phục vụ các chính thể này thực hiện sứ mệnh tổ chức, quản lý điều hành sự vận hành xã hội. Mặc dù các thể chế được tạo ra bởi chính các chủ thể Nhà nước quốc gia, lãnh thổ, nhưng với bản chất là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của các chủ thể trong một xã hội, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi chủ thể xã hội chia sẻ, điều đó có nghĩa là thể chế thực sự là chủ thể quản lý xã hội, xác lập các công cụ quản lý xã hội. Vai trò này không chỉ thể hiện ở trọng trách của thể chế với các chủ thể xã hội nói chung, mà nó còn được thực thi ngay với chính chủ thể Nhà nước - chủ thể quyền lực cao nhất và cả những chủ thể khác trong bộ máy nhà nước. Bởi bản thân các chủ thể từ nhà nước đến các chủ thể khác đều phải chịu sự điều chỉnh và phải tuân thủ sự điều chỉnh của thể chế. 

Trên thực tế, Hiến pháp, hệ thống pháp luật, các quyền căn bản được chế định, các chính sách, các quy tắc, quy phạm…với tư cách là hiện thân của thể chế quốc gia, tất yếu sẽ đóng vai trò chủ thể quản lý, điều tiết vận hành xã hội theo định hướng mục tiêu.

Thứ tư, thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một chính quyền tốt, hạn chế tham nhũng.

Thể chế được hiện hữu bởi hệ thống luật pháp, chính sách, các quy tắc, quy phạm…theo đó mọi hoạt động, vận hành xã hội được thực hiện và điều chỉnh bởi những nhân tố này. Với tư cách là một chủ thể xã hội, một hành vi xã hội, chủ thể - chính quyền và hành vi tham nhũng cũng được duy trì sự vận hành, hoạt động bởi khung khổ chung do các thực thể của thể chế tạo thành.

Nếu thể chế được thiết lập một cách hiệu quả và việc tuân thủ nó được tôn trọng, tất yếu sẽ có một chính quyền tốt được duy trì và hành vi tham nhũng được hạn chế. Tuy nhiên, không phải dễ dàng có được một thể chế hiệu quả, mà vấn đề là mọi thể chế đều có thể có những khiếm khuyết hoặc việc tuân thủ thể chế bị giới bạn bởi tinh thần thượng tôn pháp luật không được đề cao. Mặc dù vậy, vẫn không thể phủ nhận được vai trò của thể chế trong việc góp phần đắc lực cho duy trì chính quyền vận hành trên cơ sở tuân thủ khung khổ thể chế, bởi thực tế là một thể chế được xác lập khó hoàn thiện mà thông thường sẽ có những hạn chế nhất định, song những hạn chế đó là không căn bản, nên nếu việc tuân thủ thể chế được thực hiện tốt ắt sẽ là tiền đề vững chắc duy trì chính quyền tốt và kiểm soát tham nhũng.

North (1990) đã nghiên cứu thực tế ở những thể chế dân chủ phát triển và đã đi đến kết luận là thể chế dân chủ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một chính quyền tốt, hạn chế tham nhũng; thúc đẩy phát triển kinh tế hiệu quả; đảm bảo môi trường kinh tế tự do hơn. Những thể chế tiến bộ này đã tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, tạo ra những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng và cũng tạo nên thương hiệu quốc gia(3). Và chính giá trị của thương hiệu quốc gia đã làm tăng giá trị GDP của quốc gia. Một cuộc khảo sát được thực hiện bởi Simon
Anholt trên phạm vi 29 nước ở các châu lục khác nhau, kết quả là: có 18 nước có giá trị thương hiệu quốc gia cao hơn GDP, trong đó Đan Mạch là nước có giá trị thương hiệu quốc gia cao hơn giá trị GDP tới 320%; Ý và Đức là 167%; Hoa Kỳ là 152%; Nhật Bản là 133%; và 10 nước có giá trị thương hiệu quốc gia thấp hơn GDP trong đó: Ba Lan là 18%, Brazil là 30%, Trung Quốc là 43%(4).

Dựa trên những kết quả nghiên cứu này có thể nhận thấy rằng, một quốc gia có được một thể chế hữu hiệu, tất yếu quốc gia đó sẽ có được nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội mạnh, bền vững và những điều này sẽ tạo nên thương hiệu quốc gia - giá trị riêng của quốc gia đó, điều đó cũng đồng nghĩa rằng tại quốc gia đó một chính quyền tốt được duy trì và tham nhũng được kiểm soát. Chẳng hạn, khi nói đến Xinhgapo, tất thảy mọi người đều có chung một dấu ấn rằng đó là quốc đảo phát triển với một thể chế nhà nước mạnh, với một tinh thần thượng tôn pháp luật, đó là một thể chế trọng dụng nhân tài...

Thứ năm, thể chế góp phần tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế những khuyết tật của tiến trình phát triển xã hội.

Mọi tiến trình phát triển xã hội dù ít hay nhiều đều chứa đựng những khuyết tật như những bất ổn kinh tế, chính trị hay xã hội, thậm chí đó là những lệch lạc trong thực hiện mục tiêu xã hội; đó là tệ nạn xã hội; đó là tiêu cực kinh tế; đó là những tổn hại môi trường bởi những “tham vọng lợi nhuận”…

Những hạn chế, khuyết tật trong tiến trình phát triển xã hội được nêu trên hoàn toàn có thể khắc phục nếu có hệ thống thể chế căn bản và khả thi. Có hệ thống thể chế căn bản và khả thi, có nghĩa là có một hệ thống pháp luật, chính sách tương đồng, tin cậy có tác động lan tỏa và có khả năng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể xã hội…với hệ thống thể chế ấy, tất yếu sẽ cung cấp cho chủ thể nhà nước những tiền đề, điều kiện cần thiết để hạn chế những khuyết tật trong tiến trình phát triển xã hội.

Vì vậy, muốn thúc đẩy phát triển, muốn hạn chế hữu hiệu những khuyết tật trong tiến trình phát triển xã hội cần bắt đầu từ xây  dựng  thể  chế  phù  hợp, trên cơ sở phối kết hợp một cách hài hòa, hợp lý giữa trình độ phát triển của quốc gia với việc tiếp thu kinh nghiệm quản trị nhà nước tiên tiến, trong đó cần hướng đến gia tăng sự tham gia của người dân, tăng trách nhiệm giải trình, tăng tính tuân thủ pháp luật, tăng hiệu quả ban hành các chính sách và thực thi các chính sách của chính quyền.

Thứ sáu, thể chế có vai trò kiểm soát các nguồn lực trong xã hội

Trong nhiều nghiên cứu mang tính dẫn đầu về phân tích ảnh hưởng của thể chế, từ hơn 10 năm qua Acemoglu(5) và các cộng sự đã thảo luận mối quan hệ giữa thể chế kinh tế và chính trị trong mối quan tâm tới việc tiệm cận các nguồn lực trong xã hội. Nhóm nghiên cứu này đã minh chứng rằng các nhóm lợi ích khác nhau sẽ hưởng lợi khác nhau từ các thể chế kinh tế, từ đó họ thiết kế ra các thể chế chính trị phù hợp để bảo vệ quyền lực kinh tế thực tế của nhóm có quyền kiểm soát nguồn lực trong quốc gia. Nếu quyền lực chính trị bị giới hạn trong một nhóm nhỏ, các thể chế kinh tế, ví dụ quyền sở hữu có thể bị thao túng. Ngược lại, nếu quyền lực chính trị có sự tham gia rộng rãi của người dân thì các thể chế kinh tế sẽ mang lại phúc lợi cho số đông. Nhóm nghiên cứu này chứng minh rằng các thể chế kinh tế không được lựa chọn ngẫu nhiên, mà vì hiệu quả phân phối phúc lợi của nó. Vì gốc rễ của vấn đề là phân phối nguồn lực, cho nên một quốc gia muốn trở nên giàu có phải bắt đầu từ những cải cách thể chế, nhất là thể chế chính trị, đảm bảo quyền tự do của người dân được tiệm cận hoặc giám sát các nguồn lực trong xã hội.

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, xét đến cùng bản chất của thể chế là nhằm kiểm soát các nguồn lực. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tương quan sức mạnh quyền lực mà thể chế có thể được thiết lập nhằm hướng đến đảm bảo các nguồn lực nhiều hơn, lợi ích nhiều hơn cho bên có sức mạnh quyền lực lớn hơn. Và điều đó cũng đã được Acemoglu dự báo rằng, những nhóm đặc quyền kiểm soát tài  nguyên và các nguồn lực trong quốc gia không hề dễ dàng từ bỏ các đặc lợi của mình.

Thứ bảy, thể chế đảm bảo các chủ thể xã hội thực hiện được các quyền và nghĩa vụ.

Với tư cách là một hệ thống các công cụ quản lý và điều tiết vận hành xã hội, thể chế sẽ tạo cơ chế để các chủ thể xã hội vừa thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Thực tế phát triển các thể chế ở nhiều quốc gia cho thấy, một thể chế thiếu chú trọng đến việc khuyến khích các chủ thể phát huy các quyền của mình để đóng góp cho phát triển xã hội và đảm bảo các nhu cầu chính đáng của bản thân, trong khi lại chú trọng đến việc đòi hỏi họ thực hiện quá nhiều nghĩa vụ, thì chắc sẽ đi đến triệt tiêu động lực phát triển. Một thể chế thiếu tôn trọng quyền làm chủ của các chủ thể xã hội, không tạo thuận lợi cho các chủ thể thực hiện các hoạt động mưu sinh, mà chỉ chú trọng tạo thuận lợi cho chính quyền hoặc cho những nhóm lợi ích cá biệt, đẩy khó khăn cho đông đảo các chủ thể xã hội khác, thì chắc chắn sẽ không khơi dậy được các sáng kiến, tài năng của cộng đồng xã hội cho phát triển đất nước.

Một xã hội mà thể chế không nghiêm, các tệ nạn xã hội như tham nhũng, vi phạm pháp luật không được xử lý nghiêm minh, thì phép nước sẽ bị coi thường, niềm tin bị xói mòn, xã hội sẽ thiếu sự đồng thuận, không thể phát triển bền vững.

Bởi vậy, bất kể một quốc gia nào thể chế cũng cần đảm bảo để các chủ thể trong xã hội được thực hiện quyền và nghĩa vụ chính đáng của mình. Hoạt động của thể chế càng hiệu quả thì việc bảo đảm thực hiện các quyền của các chủ thể mang tính cạnh tranh công bằng hơn và không cho phép thế lực này giành được quyền lực hơn để áp đảo thế lực khác. Qua đó sẽ tạo nên các động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, xã hội ổn định.

Vậy thể chế như thế nào là phù hợp? Thể chế như thế nào được coi là hiệu quả với sự phát triển của một quốc gia, một vùng lãnh thổ?

Câu trả lời là không có một thể chế chính trị hữu hiệu, phù hợp với mọi chính thể và cũng như tương thích với mọi giai đoạn phát triển. Mà  mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, tùy từng giai đoạn phát triển, tùy bối cảnh trong nước và xu hướng vận động của thế giới mà có những lựa chọn thể chế thích hợp. Mặc dù vậy, nguyên tắc chung để có một thể chế hữu hiệu, phù hợp hỗ trợ đắc lực cho phát triển của quốc gia gồm:

- Thể chế quốc gia phải được thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của cộng đồng xã hội, hay nói gọn hơn đó phải là một thể chế vì dân. Đây là một nguyên tắc quan trọng để đảm bảo rằng thể chế quốc gia thực sự hỗ trợ sự phát triển.

- Để thể chế quốc gia thực sự “vì dân”, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của cộng đồng xã hội, thể chế ấy nhất định phải đảm bảo sự tham gia rộng rãi của cộng đồng xã hội. Về nguyên tắc, việc nghiên cứu, soạn thảo, ban hành thể chế quốc gia là do các cơ quan quyền lực nhà nước tiến hành, song quá trình ấy phải có sự tham gia đầy đủ của người dân, của cộng đồng xã hội.

Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao cho việc tham gia của người dân, của cộng đồng xã hội được thực hiện một cách thực chất, cả từ phía cơ quan nhà nước và từ phía người dân. Kiến nghị ở đây là cần công bố rộng rãi, công khai các dự thảo văn bản pháp quy để người dân dễ tiếp cận và có thể tham gia ý kiến. Cơ quan nhà nước cần tiếp thu một cách chân thành, tránh hình thức, chiếu lệ. Cũng nên khuyến khích phản biện xã hội, để qua đó nghe được ý kiến từ nhiều phía, nhất là ý kiến phản biện của các tổ chức xã hội - những tổ chức của dân, gần dân, nói lên tiếng nói của dân.

Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình một cách đúng đắn trong các cơ quan công quyền được tuân thủ trong quy trình thiết lập và thực thi thể chế sẽ được sự áp đặt của thể chế. Bên cạnh đó. Sự tham gia của người dân trong việc thiết kế thể chế cũng chính là một giải pháp khắc phục tình trạng thể chế, chính sách bị tác động của các nhóm lợi ích…

- Để có hệ thống thể chế quốc gia hỗ trợ đắc lực sự phát triển hay đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của cộng đồng xã hội thì chất lượng thể chế phải được đảm bảo. Chất lượng thể chế phụ thuộc lớn vào chất lượng khung khổ pháp luật; vai trò của Chính phủ, mức độ thuận lợi của môi trường vĩ mô và quan trọng hơn đó là năng lực của đội ngũ xây dựng, ban hành thể chế và hiệu lực thực thi của các thể chế.

- Hệ thống luật pháp là yếu tố quan trọng nhưng chưa đủ cho một thể chế mang tính khả thi. Vì thế phải xây dựng cơ chế cụ thể thực thi luật pháp và thể chế trong thực tế cuộc sống bao gồm nhiều hoạt động như phổ biến, truyền đạt các nội dung và quy tắc của thể chế trong xã hội, triển khai sự vận động của luật lệ, thể chế trong hoạt động kinh tế; tổ chức theo dõi, giám sát việc thực thi thể chế trong thực tiễn; tổ chức hỗ trợ tư pháp cho các chủ thể xã hội để thể chế thực sự phục vụ sự vận hành xã hội.

- Hiệu lực thể chế không thể chỉ dựa trên sự tôn trọng và tuân thủ của các chủ thể xã hội mà còn dựa vào sự theo dõi, giám sát bởi một bộ máy tổ chức chuyên môn, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng.

_____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2014

(1) Võ Đại Lược: Định hình một thương hiệu quốc gia của Việt Nam, Tạp chí Tia sáng, thứ năm, ngày 20 -12 -2012 .

(2) “Bản kiến nghị” được gửi ngày 8-9-2011 với tựa đề “Cải cách toàn diện để phát triển đất nước” của các tác giả là những nhà khoa học người Việt đang sinh sống và làm việc tại nhiều quốc gia trên thế giới. 

(3) Giá trị phổ biến về thể chế của những nước phát triển thuộc OECD được xem như là những nước có thương hiệu quốc gia tốt nhất (Simon Anholt, Dung, 2008).

(4) Simon Anholt, Sự nhận diện mang tính cạnh tranh, 2006, tr. 35.

(5) Giáo sư Daron Acemoglu thuộc Viện công nghệ Massachusetts.

 

PGS,TS Phạm Thị Túy

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền