Trang chủ    Diễn đàn    Yêu cầu hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam
Thứ năm, 22 Tháng 9 2016 10:58
3719 Lượt xem

Yêu cầu hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam

(LLCT) Trong điều kiện kinh tế thị trường, quảng cáo là công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, tạo cơ hội cho người tiêu dùng có điều kiện để lựa chọn sản phẩm phù hợp nhất trong sinh hoạt và cuộc sống; quảng cáo vì thế là một trong các công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển thị trường.

Với sự phát triển của công nghệ, ngày nay quảng cáo không chỉ có các hình thức như tờ rơi, quảng cáo trên báo giấy, báo hình... trong phạm vi địa phương, quốc gia, mà còn thực hiện xuyên biên giới. Bên cạnh những mặt tích cực, thì quảng cáo cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ xâm phạm quyền lợi của doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà nước. Chính vì thế, cùng với việc tạo điều kiện cho công cụ xúc tiến thương mại này phát triển trong khuôn khổ, trật tự, Nhà nước cần không ngừng xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý.

Luật Cạnh tranhđược ban hành từ năm 2004 và thực thi từ ngày 01/7/2005, đến nay đã xuất hiện các yêu cầu thực tiễn đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các quy định của Luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập, đảm bảo hiệu quả trong công tác thực thi pháp luật. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, các quy định pháp luật cạnh tranh nói chung và các quy định về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng cần được hoàn thiện theo những định hướng cơ bản và phù hợp điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế.

1. Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường quảng cáo

Thị trường quảng cáo của Việt Nam những năm gần đây có rất nhiều biến động và thay đổi lớn.Truyền hình vẫn là kênh quảng cáo phổ biến nhất. Trong khi, báo điện tử và các kênh truyền hình trực tuyến đã có một bước nhảy vọt. Điều này cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được giá trị của cộng đồng, phần nào thúc đẩy sự phát triển của phân khúc thị trường.

Thị trường quảng cáo của Việt Nam đang sôi động với nhiều cách thức mới mẻ. Các doanh nghiệp làm quảng cáo trong nước bước đầu giành được thị phần từ các công ty nước ngoài bằng các sản phẩm đầy sáng tạo. Đã có rất nhiều loại hình quảng cáo mới và nhiều cách tiếp thị quảng cáo độc đáo. Bên cạnh những hình thức quảng cáo truyền thống, một số hình thức quảng cáo mới phát triển rất mạnh mẽ nhưquảng cáo, tiếp thị trên điện thoại di động, trên Internet, mạng xã hội.

2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo

Là một bộ phận quan trọng của pháp luật cạnh tranh, chế định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo được xây dựng và thực thi dựa trên các nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường đó là tôn trọng tự do, bình đẳng, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh. Bên cạnh đó, do tính chất đặc thù của đối tượng điều chỉnh và phạm vi điều chỉnh, nên pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo đòi hỏi phải đáp ứng các nguyên tắc đặc thù trong điều chỉnh pháp luật nhằm phát huy hiệu quả trong thực tiễn áp dụng.

Một là,pháp luật cần có các quy định và chế tài phù hợp để đảm bảo các chủ thể phải tuân thủ đạo đức kinh doanh trong hoạt động quảng cáo

Hoạt động quảng cáo là một quá trình từ thiết kế, xây dựng, sản xuất sản phẩm quảng cáo và thông qua phương tiện quảng cáo để truyền tải thông tin quảng cáo đến với người tiêu dùng. Thông tin trong quảng cáo không chỉ thông báo đến người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mà còn giúp người mua có sự lựa chọn và quyết định mua một hàng hoá giữa rất nhiều loại sản phẩm tương tự nhau trên thị trường. Vì vậy, yêu cầu quảng cáo phải trung thực, thông tin chính xác, không được thổi phồng, phóng đại quá sự thật vốn có.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần đảm bảo yêu cầu lành mạnh trong hoạt động quảng cáo, các chủ thể kinh doanh cần tôn trọng đối thủ cạnh tranh. Trong quảng cáo, sẽ không được coi là tôn trọng khi sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại của doanh nghiệp khác mà không được phép hay thông qua các sản phẩm quảng cáo để dèm pha, bôi xấu, hạ uy tín doanh nghiệp khác. Việc sử dụng hình thức để so sánh để hạ thấp uy tín của doanh nghiệp khác, làm nổi bật sản phẩm của mình là hành vi không phù hợp với đạo đức kinh doanh.Luật sở hữu trí tuệ coi hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nếu sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký bảo hộ(1);cấm các hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho loại sản phẩm, dịch vụ gây nhầm lẫn.

Hai là,cần xác định lại bản chất “thương mại” của hoạt động quảng cáo trong quá trình cạnh tranh

Các doanh nghiệp khi thực hiện quảng cáo trên thị trường thường là nhằm mục tiêu để bán sản phẩm; do đó thường nhằm vào đối tượng người dùng cuối hoặc nhà đại diện và nhà phân phối. Bởi vậy, chỉ có quảng cáo mang tính thương mại mới có tính cạnh tranh sâu sắc, còn các quảng cáo phi thương mại nếu xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh bôi nhọ, nói xấu, kích động đối thủ thì dường như không phải đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh mà có thể là đối tượng điều chỉnh của các lĩnh vực pháp luật khác.

Nói đến cạnh tranh không lành mạnh, chỉ có thể là cạnh tranh trong kinh doanh, thương mại. Bởi vậy, cần xác địch rõ bản chất thương mại và mục đích cạnh tranh của các hành vi quảng cáo. Từ đó, việc nhận diện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo sẽ cụ thể và rõ ràng hơn. Bởi vậy, pháp luật thương mại và pháp luật cạnh tranh không điều chỉnh hoạt động quảng cáo phi thương mại. Điều này sẽ giúp cho hoạt động quảng cáo nói chung và quảng cáo so sánh nói riêng được thông suốt, thuận lợi hơn về mặt quản lý nhà nước. Nên điều chỉnh hoạt động quảng cáo so sánh tập trung trong một hoặc hai văn bản nhất định, như Luật Cạnh tranh và một văn bản hướng dẫn thi hành Luật này có liên quan đến quảng cáo so sánh. Các văn bản luật khác như: Luật Thương mại, Luật Quảng cáo chỉ nên quy định cấm các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Điều này sẽ giúp cho các quy định liên quan đến quảng cáo so sánh được thống nhất và nâng cao vai trò và tầm quan trọng thích đáng của pháp luật cạnh tranh trong xử lí các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.

Ba là, khắc phục các vấn đề liên quan đến tính thống nhất của pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật điều chỉnh các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Hiện nay, thực trạng thực thi pháp luật đang đặt ra nhiều vấn đề lớn liên quan đến tính thống nhất của pháp luật và cơ chế thực thi. Với tình trạng cùng một hành vi quảng cáo so sánh, quảng cáo sai sự thật, quảng cáo bắt chước… được quy định trong nhiều văn bản pháp luật được ban hành ở các thời điểm khác nhau (Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quảng cáo…) và được thực thi bởi các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau, nên tất yếu tồn tại những khác biệt về cách mô tả cấu thành pháp lý của hành vi, khác biệt về biện pháp và mức độ xử lý, thủ tục xử lý người có hành vi vi phạm. Thực trạng này ảnh hưởng lớn đến tính thống nhất của pháp luật và sự nghiêm minh của quá trình thực thi pháp luật. Ngoài ra, với sự khác biệt về cơ chế xử lý cũng có thể dẫn đến những khác biệt về quan niệm giải quyết một vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Mặc dù đều là hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý kinh tế của Nhà nước, song việc thực thi các quy định cụ thể trong lĩnh vực quảng cáo hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ tích cực của các cơ quan, các cán bộ có thẩm quyền. Với các cơ quan chuyên ngành, chức năng điều tra vụ việc không phải là nhiệm vụ chính nên việc xử lý gần như chỉ bắt đầu từ khiếu nại của các doanh nghiệp hoặc sự lên tiếng của công luận. Các cơ quan chuyên ngành dường như chưa có sự chủ động phát hiện và điều tra để xử lý các hành vi vi phạm. Trong khi đó, Luật Cạnh tranh trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh thẩm quyền điều tra vụ việc ngay cả khi không có khiếu nại. Với thẩm quyền điều tra và với lực lượng điều tra viên, cơ quan quản lý cạnh tranh đã chủ động tiến hành các vụ việc điều tra về hành vi cạnh tranh không lành mạnh một cách chủ động không phụ thuộc vào sự khiếu nại của những người liên quan. Những khác biệt đáng kể này đã ảnh hưởng lớn đến sự thống nhất của quá trình thực thi pháp luật và có thể tạo ra sự bất bình đẳng trong việc xử lý các doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm đến các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Do đó, vấn đề hình thành cơ chế thống nhất và  đặt ra nguyên tắc thống nhất trong việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh là cần thiết.

Sự tham gia của nhiều cơ quan quản lý nhà nước vào việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh một mặt tạo ra sự cần thiết trong việc liên kết và hợp tác giữa các cơ quan trong nhà nước để đảm bảo giải quyết triệt để các hành vi quảng cáo xâm hại đến môi trường cạnh tranh lành mạnh; đảm bảo cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng có thể tin tưởng vào sức mạnh công quyền để bảo vệ lợi ích của mình. Song mặt khác tình trạng này cũng có thể gây ra những hệ lụy không mong muốn, đó là: (i) Sự chồng chéo về thẩm quyền xử lý cùng một hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. (ii) Khả năng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi pháp luật khi một hành vi vi phạm được quy định trong nhiều văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực quản lý kinh tế khác nhau. Đặc biệt là những hành vi đồng thời được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác như Luật Thương mại, Luật Quảng cáo...

Các vụ việc cạnh tranh vốn dĩ rất dễ chạm đến những nhóm quyền lợi khác nhau hoặc gây ra những xung đột trong việc bảo vệ và chống lại các nhóm lợi ích của nhiều bộ phận chủ thể tham gia thị trường. Ngoài những khả năng chạm vào các nhóm lợi ích nhạy cảm về kinh tế, việc xử lý vụ việc cạnh tranh còn có thể tạo ra những tranh cãi lớn trên bình diện xã hội. Tất cả những trường hợp trên đều có thể gây ra áp lực cho cơ quan thực thi pháp luật. Để thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, cơ quan thực thi không chỉ cần có đội ngũ điều tra viên am hiểu pháp luật, tinh tường về kỹ thuật điều tra và xử lý thông tin mà còn cần có bản lĩnh, vị trí chính trị đủ mạnh. Sự yếu thế về chuyên môn hoặc khả năng chịu sức ép chưa phù hợp đều có thể làm giảm khả năng ứng phó và quyết tâm xử lý vụ việc triệt để. Từ đó, việc đùn đẩy lẫn nhau giữa các cơ quan có thể xảy ra nhằm lẩn tránh các sức ép xã hội, kinh tế kể trên. Do đó, dưới góc độ pháp luật, việc đặt ra cơ chế xử lý xung đột về thẩm quyền, giải quyết tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong các vụ việc là cần thiết.

Bốn là, khắc phục sự hạn chế trong các quy định xác định cấu thành pháp lý của các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Các quy định hiện hành trong Luật Cạnh tranh quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn nhiều điểm hạn chế về cách sử dụng từ ngữ pháp lý trong việc xác định cấu thành pháp lý của hành vi, đồng thời, cần nghiên cứu lại tính phù hợp của một số hành vi bị kết luận là cạnh tranh không lành mạnh và cần xem xét về tính bất chính của một số hành vi cụ thể trong các nhóm cạnh tranh không lành mạnh.  

Đối với các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, cần định hướng xây dựng những nội dung cụ thể về hành vi quảng cáo so sánh. Trong định nghĩa quảng cáo so sánh của Chỉ thị 84/450/EEC có đề cập đến “sự làm nhận ra một cách trực tiếp” và “sự làm nhận ra một cách gián tiếp” nhưng lại không giải thích thêm như thế nào là “sự làm nhận ra một cách trực tiếp/gián tiếp”. Việc nêu ra “sự làm nhận ra một cách trực tiếp/gián tiếp” trong định nghĩa có mục đích thông tin về các cách thức thực hiện một quảng cáo so sánh và điều này không ảnh hưởng gì đến khả năng áp dụng của các quy định pháp luật trên. Có thể đưa ra một định nghĩa quảng cáo so sánh là quảng cáo làm nhận ra một hoặc một vài đối thủ cạnh tranh hoặc các sản phẩm hay các dịch vụ cùng loại mà đối thủ cạnh tranh sản xuất, cung ứng hay phân phối và đáp ứng được một số điều kiện khác do pháp luật quy định.

Đối với các hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, cần xác định rõ tính trung thực được đánh giá theo tác động đến đối tượng của hành vi quảng cáo trực tiếp là khách hàng và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần chỉ rõ những tác động của quảng cáo gây nhầm lẫn đến đối thủ cạnh tranh khi khách hàng mua sản phẩm dựa trên những trên những thông tin sai lệch và chịu thiệt hại nhất định về kinh tế thì đồng nghĩa với việc các đối thủ cạnh tranh mất khách hàng này. Cần bổ sung các tiêu chí xác định tính chất khả năng gây nhầm lẫn, bao gồm: Thông tin không trung thực, sai lệch so với thực tế; thông tin không đầy đủ, tạo ấn tượng cho người xem quảng cáo nhận thức sai lệch so với thực tế; quảng cáo tạo nhận thức sai lệch cho những khách hàng tiềm năng trong điều kiện tiếp nhận quảng cáo bình thường; quảng cáo gây nhầm lẫn có tức động thực tế đến quyết định mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người xem…

Tuy nhiên, cần làm rõ cấu thành pháp lý của hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng. Trong trường hợp này, có hai vấn đề cần được làm rõ khi xây dựng các quy định của pháp luật là (i) xác định rõ tính không lành mạnh của hành vi; (ii) xây dựng cấu thành  pháp lý của hành vi. Nếu dựa vào quy định hiện tại theo Khoản 2 Điều 45 Luật Cạnh tranh, tính không lành mạnh của hành vi chủ yếu được xác định từ mục đích gây nhầm lẫn cho khách hàng. Song các quy định của Luật Cạnh tranh không làm rõ được đối tượng bị nhầm lẫn là nhầm lẫn giữa các sản phẩm quảng cáo có liên quan hay là nhầm lẫn giữa các sản phẩm được quảng cáo có trong các sản phẩm quảng cáo liên quan. Một khi chưa làm rõ được điều này thì chắc chắn quy định của pháp luật còn mơ hồ, không rõ ràng và không thể áp dụng được trên thực tế.

Ngoài ra, Khoản 2 Điều 45 cũng chưa làm rõ nội dung nhầm lẫn của hành vi. Điều luật chỉ quy định một cách đơn giản là  bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng. Tuy nhiên, đối với hành vi này, tính không lành mạnh của hành vi nên xác định từ việc bắt chước sản phẩm quảng cáo khác, cho nên, vụ việc mà hành vi có mục đích gây nhầm lẫn cho khách hàng và vụ việc có ảnh hưởng gây nhầm lẫn, thì chúng ta không nên đặt nặng mục đích gây nhầm lẫn và coi chúng như một yếu tố không thể thiếu trong cấu thành pháp lý của hành vi vi phạm. Mặt khác, nếu hành vi không thật sư ảnh hưởng gây nhầm lẫn cho khách hàng, thì sẽ quá nghiêm khắc nếu coi đó là vi phạm. Với cách tiếp cận này, vấn đề cần giải quyết trong quy định trên là cấm vụ việc bắt chước sản phẩm quảng cáo gây nhầm lẫn cho khách hàng mà không cần phải chứng minh mục đích gây nhầm lẫn của hành vi.

Năm là, cần chú trọng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại

Vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không được quy định cụ thể mà Luật lại dẫn chiếu đến pháp luật dân sự (Điều 117 Luật Cạnh tranh). Như vậy, vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự năm 2005. Cần xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra và theo quy định tại Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2005. Đồng thời cần xác định rõ những loại chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh đó, cần quan tâm đẩy mạnh và thắt chặt sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với Tòa án trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thực tế ở Việt Nam, Tòa án chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chính vì thế, việc phối kết hợp giữa Tòa án với cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh trong quá trình xử lý các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra là rất cần thiết.

3. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật.

Luật Cạnh tranh ở nước ta được ban hành từ năm 2004 và đưa vào thực thi từ ngày 01/7/2005, đến nay đã xuất hiện các yêu cầu thực tiễn đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các quy định của Luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập, đảm bảo hiệu quả trong công tác thực thi pháp luật. Trong bối cảnh hiện nay, các quy định pháp luật cạnh tranh nói chung và các quy định về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng cần được hoàn thiện theo những định hướng cơ bản sau đây:

Thứ nhấtviệc sửa đổi hoàn thiện pháp luật cạnh tranh cần phải đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Pháp luật cạnh tranh phải được hoàn thiện phù hợp với khung pháp lý của các tổ chức quốc tế mà chúng ta là thành viên, đặc biệt là phù hợp khuôn khổ các Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ở Việt Nam, mặc dù trong hầu hết các văn bản pháp luật quan trong như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại… đều có các quy định dẫn chiếu trực tiếp đến điều ước quốc tế, nhưng theo thói quen lập pháp và hành pháp của chúng ta, việc trực tiếp viện dẫn các quy định của điều ước quốc tế để áp dụng cho những trường hợp cụ thể không thể thực hiện được. Do đó, pháp luật cạnh tranh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng luôn phải được đặt trong xu thế chung của tiến trình nhất thể hóa pháp luật cho phù hợp với khung pháp lý đã được thừa nhận trong thương mại quốc tế.

Đấu tranh với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là nhiệm vụ khá mới mẻ đối với Việt Nam nhưng lại là lĩnh vực mà nhiều quốc gia trên thế giới rất có kinh nghiệm. Trong bối cảnh ấy, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong việc xử lý các vấn đề về cạnh tranh trong đó có cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết. Trong thời gian tới Bộ Công thương cần có các chương trình hợp tác nghiên cứu, học tập trao đổi kinh nghiệm với các nước có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh nói chung và trong việc đấu tranh chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam và các cán bộ của cơ quan ấy có thêm kiến thức, năng lực và trình độ để xử lý các vấn đề mà thực tiễn Việt Nam đặt ra.

Thứ haiviệc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung và các quy định về cạnh tranh không lành mạnh nói riêng phải được đặt trong mối quan hệ tổng thể với các chế định pháp luật khác

Tính chất phức tạp của quan hệ cạnh tranh đòi hỏi pháp luật cạnh tranh phải được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các chế định pháp luật khác như pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật thương mại, pháp luật quảng cáo, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính… Các vấn đề cần giải quyết hiện nay để xử lý mối quan hệ này sẽ là:

(i) Phải xác định rõ rằng mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật quản lý nhà nước các lĩnh vực kinh tế cụ thể là quan hệ pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành. Trong đó, Luật Cạnh tranh đặt ra những nguyên tắc cơ bản cho việc nhận dạng hành vi và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các văn bản pháp luật khác khi quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh phải  tuân thủ theo đúng các nguyên tắc này. Các văn bản pháp luật khác quy định chi tiết và bổ sung cho Luật Cạnh tranh về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh. Tuy nhiên, cần có sự phân biệt giữa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi đơn thuần chỉ vi phạm pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, trong lĩnh vực quảng cáo, cần phân biệt rõ các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo gian dối, quảng cáo so sánh… với các hành vi vi phạm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo như dùng hình ảnh lãnh tụ để quảng cáo, quảng cáo những loại sản phẩm bị cấm quảng cáo…. Để làm được điều này, cần có những nghiên cứu nghiêm túc về các loại hành vi và bản chất cạnh tranh không lành mạnh của chúng trong từng lĩnh vực để có những quy định phù hợp.

(ii) Cần thống nhất trong các quy định của pháp luật về các hành vi đã được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành và thống nhất về quan điểm xử lý. Với các quy định về hành vi, chúng ta có thể thấy có nhiều hành vi cùng được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác nhưng có nội dung khác nhau. Ví dụ như quy định về chỉ dẫn gây nhầm lẫn được quy định trong Luật cạnh tranh có nội hàm hẹp hơn so với quy định trong pháp luật về sở hữu trí tuệ; các quy định về xâm phạm bí mật kinh doanh trong hai văn bản pháp luật trên cũng có sự khác nhau đáng kể về các dạng vi phạm….; các quy định về quảng cáo không trung thực trong pháp luật quảng cáo và quảng cáo gian dối, gây nhầm lẫn quy định trong Luật cạnh tranh…. Để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật thì cùng một hành vi nên chỉ có một khái niệm mô tả hành vi. Có như vậy, việc thực thi pháp luật vừa đảm bảo được hiệu quả, vừa đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của pháp luật. Do đó, việc rà soát sự khác biệt trong các quy định của pháp luật về cùng một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là cần thiết để có thể có kế hoạch sửa đổi một cách đồng bộ các quy định tương ứng trong nhiều văn bản pháp luật.

Thứ bacần đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thực thi pháp luật

Có thể thấy, độc lập trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh là yếu tố tiên quyết để có được sự công bằng trong việc xử lý các vụ việc và cũng là điều mà các bên liên quan chờ đợi ở cơ quan này. Vì thế, cho dù tổ chức bộ máy cơ quan cạnh tranh theo mô hình nào đi nữa thì nguyên tắc quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo tính độc lập cho nó không chịu bất kỳ sự can thiệp hay chi phối nào từ các cơ quan khác làm ảnh hướng tới sự công bằng trong thương mại quốc tế. Độc lập là yếu tố tiên quyết để có sự công bằng trong việc xử lý các vụ việc, điều mà các bên đương sự luôn chờ đợi ở cơ quan này. Chỉ khi sự công bằng được đảm bảo bằng một bộ máy đủ mạnh và công tâm thì lúc ấy thị trường mới thực sự lành mạnh và phát triển bền vững.

Tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và hoạt động luôn luôn là mục tiêu hàng đầu mà các nước này hướng tới xây dựng. Đây là nội dung rất quan trọng đảm bảo cho những cơ quan này có thể thực hiện chức năng xử lý một cách công minh, vì mục tiêu thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Để đạt được mục tiêu này, pháp luật cạnh tranh các nước đều quy định nguyên tắc tối cao là các cơ quan cạnh tranh hoàn toàn độc lập trong các hoạt động của mình mà không bị chi phối hay can thiệp của bất kỳ cơ quan thứ ba nào. Các cơ quan cạnh tranh được thành lập theo Luật và thực hiện các quyền năng được Luật này trao cho. Họ cũng có thể sử dụng những quyền hạn này để yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan khác. Nhằm tạo lập sự độc lập về mặt tổ chức và tài chính, một số nước như Italia, Hoa Kỳ đã thành lập cơ quan cạnh tranh của mình trực thuộc Quốc hội, độc lập với các cơ quan hành pháp và tư pháp. Một số cơ quan cạnh tranh khác lại được tổ chức như một Bộ hay cơ quan ngang Bộ, độc lập với các bộ ngành khác (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc). Một số trường hợp khác mặc dù đặt trong một bộ ngành nào đó nhưng lại duy trì một chế độ độc lập rất cao trong hoạt động (Pháp). Các cơ quan này chỉ bị phụ thuộc cơ quan chủ quản về mặt hành chính.

Bên cạnh vị trí của cơ quan cạnh tranh, tính độc lập còn được thể hiện thông qua việc bổ nhiệm những nhân sự của các cơ quan cạnh tranh này. Các thành viên thường được bổ nhiệm bởi những người đứng đầu Chính phủ hoặc Quốc hội. Điều này đã làm tăng tính chất quan trọng cũng như tính độc lập của cơ quan cạnh tranh trong quá trình hoạt động. Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm là thành viên của cơ quan cạnh tranh cũng là điểm cần được nhắc đến. Các thành viên này thường được yêu cầu đạt được một trình độ chuyên môn nhất định, có học vấn cao, có kinh nghiệm và kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.

Cùng với yêu cầu về tính độc lập, pháp luật cạnh tranh của các quốc gia nói trên cũng quy định rất chặt chẽ về những yêu cầu phải công bố công khai các hoạt động của cơ quan cạnh tranh (tính minh bạch). Các bên liên quan có quyền yêu cầu các cơ quan cạnh tranh cho phép tiếp cận thông tin liên quan tới vụ việc.

Trên thực tế, các cơ quan cạnh tranh cũng luôn đề cao tiêu chí minh bạch (transparency) trong các hoạt động cụ thể, từ việc công khai các chính sách, pháp luật cũng như các quy trình xử lý công việc… cho đến nội dung các quyết định cụ thể trên các website của mình. Tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh phải có trách nhiệm bảo mật các thông tin thu thập được trong quá trình điều tra liên qua đến bí mật kinh doanh của các doanh nghiệp là đối tương bị điều tra. Đây là những vấn đề rất đáng để Việt Nam học tập khi nghiên cứu cải tổ cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh ở nước ta.

_________________________

(1)   Khoản 1 Điều 29 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005

Phạm Đức Hòa

UBND quận Hà Đông, TP Hà Nội

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền