Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Một số động lực chủ yếu cho sự phát triển đất nước hiện nay
Thứ hai, 11 Tháng 4 2016 10:50
30244 Lượt xem

Một số động lực chủ yếu cho sự phát triển đất nước hiện nay

(LLCT) - Động lực(Motivation),trong kỹ thuật, đó là năng lượng làm cho máy móc chuyển động; hiểu một cách chung nhất đó là cái thúc đẩy làm cho sự vật, hiện tượng phát triển. Động lực phát triển xã hội là những nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển trong một thời kỳ nhất định.

Động lực có nhiều loại: trực tiếp, gián tiếp, chủ yếu, thứ yếu, bên trong, bên ngoài. Ở từng giai đoạn cụ thể, mỗi loại có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự phát triển của xã hội. Cần phân biệt động lực với điều kiện phát triển, điều kiện là môi trường bảo đảm cho sự phát triển diễn ra, còn động lực là cái thúc đẩy xã hội phát triển. Thí dụ, ở Việt Nam hiện nay, hòa bình là điều kiện nhưng không phải là động lực phát triển xã hội.

Phân biệt động lực với nguyên nhân phát triển, nguyên nhân là cái trực tiếp tạo ra sự phát triển. Trong thực tế, có nguyên nhân đồng nhất với động lực, nhưng có nguyên nhân không đồng nhất với động lực. Thí dụ, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, đoàn kết dân tộc vừa là nguyên nhân, vừa là động lực dẫn đến sự thắng lợi; nhưng, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảnglà một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của công cuộc đổi mới nhưng đó không phải là động lực của công cuộc đổi mới.

Trong xã hội, có động lực diễn ra trong một thời gian tương đối dài (đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp) nhưng cũng có những động lực chỉ diễn ra trong thời gian ngắn (thí dụ nhu cầu giành độc lập dân tộc).

Nhận thức động lực phát triển xã hội phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể, khách quan; việc xác định đúng động lực là cơ sở khoa học để giai cấp cầm quyền chủ động tạo ra các nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.

Trước đổi mới, Đảng ta nhận thức động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước là đấu tranh giai cấp. Xác định động lực như vậy là đúng với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, khi điều kiện đất nước đã thay đổi, thì nhận thức như vậy không còn phù hợp, dẫn đến những sai lầm, kìm hãm sự phát triển đất nước. Ở đây, đã có sự đồng nhất động lực chung, xuyên suốt với động lực trong từng giai đoạn, điều kiện cụ thể.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có những nhận thức mới và xác định rõ những động lực phát triển đất nước:

Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động viên đến mức cao nhất sức mạnh của tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, người trong Đảng và người ngoài Đảng, đồng bào trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài để xây dựng và phát triển đất nước.

Đại đoàn kết toàn dân tộc được coi là động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, sức mạnh của nhân dân được nâng lên khi được quy tụ, tổ chức, có sự lãnh đạo thống nhất, sự nỗ lực của mỗi thành viên hướng vào cùng một mục tiêu.

Cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đó là lợi ích chung của cả cộng đồng, vì “Một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(1).

Trong gần 30 năm đổi mới, nhận thức đại đoàn kết dân tộc cũng có những thay đổi, phát triển phù hợp với điều kiện thực tế. Thứ nhất, nhận thức mới về xây dựng đại đoàn kết gắn với đồng thuận xã hội, trong đó đồng thuận vừa là phương thức vừa là mục tiêu của đại đoàn kết; Thứ hai, đã hình thành những bộ phận mới trong khối đại đoàn kết (như doanh nhân), ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước; Thứ ba, đã hình thành phương châm mới xây dựng đại đoàn kết: gắn với phát huy dân chủ; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung(2).

Nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ đã xóa đi những quan điểm có tính chất kinh viện, giáo điều đề cao, tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp.

Hai là, dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ XHCN được coi là bản chất của chế độ XHCN ở nước ta, vừa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy dân chủ là động lực của phát triển đất nước vì: có xây dựng, thực hiện dân chủ mới phát huy hết tiềm năng sáng tạo, động viên tính tích cực, chủ động của nhân dân giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, phát huy dân chủ còn là một trong những giải pháp làm trong sạch bộ máy nhà nước, ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền, độc quyền.

Trong thực hiện dân chủ, kết hợp hài hòa, đồng bộ từ trên xuống và từ dưới lên; toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; trong Đảng, trong xã hội.

Trong những năm gần đây, đã hình thành những hình thức mới thực hiện dân chủ XHCN như: chất vấn, tường thuật trực tiếp các cuộc chất vấn tại các Ủy ban của Quốc hội; lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; ban hành quy chế về tự ứng cử, quy chế về chất vấn và trả lời chất vấn trong Đảng; đa dạng hóa các hình thức lấy ý kiến nhân dân đóng góp cho các dự thảo văn kiện đảng, pháp luật (đặc biệt, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 vừa qua)... Có những hình thức được đánh giá là rất mới không chỉ ở Việt Nam mà cả với thế giới, thí dụ: lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

Ba là, kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người (3)

Lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất là động lực thúc đẩy con người hoạt động. Lợi ích chung của xã hội được thực hiện thông qua lợi ích của mỗi cá nhân, cộng đồng cụ thể. Trong thời kỳ đổi mới, việc thừa nhận về mặt chính trị - pháp lý sự tồn tại đa dạng, lâu dài các hình thức sở hữu, phân phối, khẳng định quyền sở hữu tư nhân, thừa kế là động lực thôi thúc mỗi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp phát triển sản xuất. Điều 32, Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”(4).

Bốn là, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ

Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là động lực phát triển đất nước vì: xét đến cùng, cả hai lĩnh vực này đều liên quan đến yếu tố con người - nguồn nhân lực chất lượng cao - chủ thể trong phát triển kinh tế tri thức.

Nhận thức giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là động lực phát triển đất nước chính là nhận thức đúng bối cảnh thời đại - sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Từ nhận thức đó, đã hình thành quan điểm coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đây cũng là một trong những giải pháp đột phá chiến lượcnhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 do Đại hội XI đề ra.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ: Một trong những con đường tất nhiên phải dẫn tới chủ nghĩa cộng sản thật sự là giáo dục, bởi một điều hiển nhiên dễ thấy là trong xã hội ấy, những thành viên đã được giáo dục làm lợi cho xã hội nhiều hơn là những thành viên ngu dốt, không có văn hóa(5).

Năm là, nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

 Trong thời kỳ đổi mới, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đều khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển đất nước” (Hội nghị Trung ương 9 khóa XI nhấn mạnh đó là sự phát triển bền vững). Văn hóa phải đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội. Văn hóa là động lực phát triển xã hội vì: một mặt, văn hóa liên quan đến phát triển con người, môi trường xã hội. Một đất nước không thể phát triển bền vững nếu những con người, cộng đồng xã hội thiếu văn hóa (học vấn, nhân cách, lối sống... phù hợp với chuẩn mực của xã hội, thời đại). Mặt khác, văn hóa là sự phản ánh, kết tinh truyền thống dân tộc, chiều dài lịch sử: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới... Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”(6). Văn hóa ngày nay còn là một lĩnh vực của kinh tế, phát triển văn hóa, công nghiệp văn hóa là một ngành sản xuất mang lại lợi nhuận cao. Suy đến cùng, mọi sự phát triển đều phải hướng đến cá nhân và cộng đồng với những chuẩn mực nhân văn, tiến bộ (con người, xã hội văn hóa).

Sáu là, công bằng xã hội

Công bằng xã hội “là một giá trị cơ bản định hướng cho việc giải quyết mối quan hệ giữa người và người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống hiến về vật chất và tinh thần ngang nhau cho sự phát triển xã hội thì được hưởng thụ ngang nhau những giá trị vật chất và tinh thần do xã hội tạo ra, phù hợp với khả năng hiện thực của đất nước”(7). Công bằng không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội; trong tiếp cận các cơ hội, nguồn lực, phân phối và thụ hưởng các thành quả phát triển đất nước. Công bằng xã hội là động lực phát triển vì nó thúc đẩy các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp ra sức sáng tạo, phát triển sản xuất vì họ sẽ được hưởng thụ xứng đáng phần đóng góp của mình vào sự phát triển đó.

Bảy là, đổi mới, sáng tạo

Công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra toàn diện trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; từ tư duyđến chính sách, hiện thựcxã hội. Trên mỗi lĩnh vực, đổi mới đã tạo ra những nhận thức mới, chính sách mới làm cho thực tiễn thay đổi theo hướng tích cực. Thí dụ như, đổi mới nhận thức trong quản lý kinh tế dẫn đến thừa nhận các yếu tố thị trường đã tạo ra động lực cho phát triển kinh tế; trong chính trị, phát huy dân chủ là động lực phát huy các tiềm năng sáng tạo của nhân dân; trong xã hội, thừa nhận các quyền tự do tư tưởng, tự do cá nhân đã là động lực của sự sáng tạo. Có thể coi đổi mới là động lực của mọi động lực cho sự phát triển xã hội Việt Nam trong 30 qua.

Tuy nhiên, thực tiễn đang đặt ra không ít những vấn đề cần phải tiếp tục khắc phục và đổi mới đồng bộ, triệt để hơn nữa để đưa đất nước phát triển bền vững. Đó là:

Trình độ phát triển, mức độ thụ hưởng các thành quả phát triển đất nước giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, vùng miền không đồng đều. Trong đó, giai cấp công nhân, nông dân, những người làm công ăn lương, người sống ở vùng sâu, vùng xa còn chịu nhiều thiệt thòi. Trong xã hội, một bộ phận “mang bản chất giai cấp công nhân” nhưng có mức sống, hưởng thụ cao hơn, thậm chí đối lập với công nhân - đó là những cán bộ, đảng viên tham nhũng, thoái hóa, biến chất làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Chính sách của Nhà nước đối với một số giai cấp, tầng lớp chưa thực sự hợp lý, thí dụ: việc thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng với giá đền bù thấp đã dẫn đến những mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí xung đột cục bộ; chính sách thu hút nhân tài đối với người Việt Nam ở nước ngoài còn nhiều bất cập... đã tác động tiêu cực đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Việc thực hiện, phát huy dân chủ ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn chưa tốt, có biểu hiện dân chủ hình thức. Quyền tự do, dân chủ của công dân được quy định trong Hiến pháp nhưng chậm được luật hóa; từ đó dẫn đến người dân không được hưởng quyền dân chủ trên thực tế. Đây là nhân tố cản trở xã hội phát triển lành mạnh, kìm hãm sự sáng tạo của quần chúng nhân dân.

Tình trạng tham nhũng chậm được ngăn chặn, đẩy lùi đã làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng. Việc phân bổ tài nguyên và các nguồn lực quốc gia không dựa trên năng lực và khả năng tối ưu hóa cho phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân mà dựa trên “lợi ích nhóm” đã làm nản lòng các nhà đầu tư, thui chột các nguồn lực của đất nước. Bất bình đẳng thu nhập gia tăng không dựa trên tài năng, công sức mà dựa vào quyền hành, địa vị xã hội, thu nhập của một giám đốc công ty công ích nhà nước gấp vài chục lần công nhân lao động là việc có thật xảy ra(7).

Nhìn lại kết quả 30 năm đổi mới cho thấy, so với mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược Đảng đã đề ra, công sức và nguồn lực đất nước, các cơ hội mà chúng ta có thể tranh thủ được... thì những gì đã đạt được còn rất khiêm tốn. Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn phía trước, trong khi đó, xét trên nhiều phương diện, khả năng đối phó còn nhiều hạn chế.

Để đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của thực tiễn hiện nay, phải nhận thức và phát huy tốt hơn nữa các động lực, ngăn ngừa, đẩy lùi các trở lực, bắt đầu từ xây dựng và vận hành có hiệu quả một thể chế chính trị dân chủ, thực hiện công bằng xã hội, phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Từ đó làm nên sức mạnh vật chất và tinh thần của đất nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế.

______________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2015

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.239-240, 240.

 (3) Ba động lực này đã được tổng kết trong Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Xem: ĐCSVN: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.137-140.

(4)Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.20.

(5)Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.730.

(6) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.40.

(7) Ngô Văn Dụ, Hồng Hà, Trần Xuân Giá: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.144.

(8) Xem: http://hanoimoi.com.vn.

 

TS Nguyễn Văn Quyết

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền