Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác lý luận chính trị trong giai đoạn mới
Thứ sáu, 07 Tháng 10 2016 16:52
4154 Lượt xem

Quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác lý luận chính trị trong giai đoạn mới

(LLCT) - Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong Đường cách mệnh dẫn câu nói nổi tiếng của Lênin: "Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong"(1). Quán triệt quan điểm trên, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đếncông tác lý luận chính trị, góp phần đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

1. Công tác lý luận chính trị trong những năm qua

Đại hội XII đã tổng kết công tác thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013 và 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới.

Trong nhiệm kỳ khóa XI, công tác lý luận chính trị được coi trọng. Đảng đã xác định: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội; coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động, năng lực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng; chất lượng, hiệu quả công tác lý luận chính trị được nâng cao, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; tích cực đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh. Cụ thể là,  đã tiến hành tổng kết: 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận. Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền XHCN tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên; đã thể chế hóa Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013 và nhiều bộ luật, văn bản luật quan trọng.

Trên lĩnh vực lý luận chính trị, tư tưởng, cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã quan tâm, coi trọng rèn luyện về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác. Đã chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, có những đổi mới về lề lối và phong cách làm việc; giữ gìn đạo đức, lối sống.

Việc tham mưu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản mới của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao hơn trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu bước đầu được thực hiện. Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đạt kết quả bước đầu.

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Có những đổi mới trong việc ban hành nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

Có thể nói, quá trình triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng về công tác lý luận chính trị đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố được niềm tin trong Đảng, xã hội và nhân dân.

Đại hội cũng chỉ ra một số hạn chế: "Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ"(2). Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn nhiều hạn chế; hiệu lực; hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập. Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế hóa, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ, cụ thể và hiệu quả.

Chất lượng và hiệu quả công tác lý luận chính trị chưa cao. Chậm khắc phục hạn chế của công tác lý luận như: còn thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ còn bị động. Thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu chưa rõ.

Chậm đổi mới tư duy về côngtác xây dưng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương.Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất cập. Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu.

Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại. Có nguy cơ diễn biến phức tạp, như "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng internet để chống phá nước ta. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức diễn biến phức tạp, chưa bị đẩy lùi.

Đại hội cũng chỉ rõ: "Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm là do xây dưng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện"(3).

2.Quán triệt Nghị quyết Đại hội XII về công tác lý luận chính trị trong giai đoạn mới

Trước hết, cần nhận thức rõ yêu cầu mà Đại hội XII của Đảng đã nêu: "Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn"(4). Đồng thời,quán triệt mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới: tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững. Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để  đổi mới và hội nhập.

Hai là,nắm vững kinh nghiệm sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI đã được Đại hội rút ra là: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp. Phải coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, sáng tạo để tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Ba là,nắm vững bài học sau 30 năm đổi mới được Đại hội tổng kết, đó là: Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Đồng thời, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Bốn là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả của cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng. Đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng tổng kết, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới.

Năm là,tiếp tục nghiên cứu và làm rõ về mặt lý luận các mối quan hệ lớn: "Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"(5).

Sáu là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, thuyết phục, hiệu quả của công tác lý luận chính trị, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bẩy là,đấu tranh, ngặn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, "lợi ích nhóm", nói không đi đôi với làm. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.

Tám là,tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền: xác định rõ mục đích, phương thức, nội dung, điều kiện; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa. Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục tư tưởng, lý luận chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ.

Chín là,tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời thực hiện lời căn dặn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị cán bộ toàn quốc học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, ngày 20-4-2016: "Các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị căn cứ vào nội dung của Nghị quyết để xây dựng các chương trình, đề tài nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn triển khai Nghị quyết Đại hội XII, khẩn trương cập nhật bổ sung, hoàn thiện chương trình, giáo trình giảng dạy lý luận chính trị sát với từng đối tượng cụ thể"(6).

_______________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 259.

(2), (3), (4), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.67, 198, 75, 90.

(6) Theo VOV.VN.

 

                                                               PGS,TS Lê Văn Yên

                                                              Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật

ThS Trương Thị Hương Lan

Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh, tỉnh Hưng Yên

 

 

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền