Xây dựng Đảng về văn hóa
(LLCT) - Trong Văn kiện Đảng, từ Cương lĩnh đến đường lối và nghị quyết đại hội cũng như nghị quyết các hội nghị Trung ương, vấn đề xây dựng Đảng được đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh, đã định hình trong tư duy của chúng ta các khái niệm đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mối liên hệ hữu cơ, mật thiết với nhau. Ngay từ những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã ý thức rõ, Đảng phải đổi mới, Đảng phải đi tiên phong tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội.
1. Sự cần thiết và tính bức xúc
Trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn công tác đảng, chúng ta thường nhấn mạnh: xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Trong Văn kiện Đảng, từ Cương lĩnh đến đường lối và nghị quyết đại hội cũng như nghị quyết các hội nghị Trung ương, vấn đề xây dựng Đảng được đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh, đã định hình trong tư duy của chúng ta các khái niệm đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mối liên hệ hữu cơ, mật thiết với nhau. Ngay từ những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã ý thức rõ, Đảng phải đổi mới, Đảng phải đi tiên phong tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh(1927), Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ điều cần thiết và hệ trọng, “muốn làm cách mệnh trong xã hội, trước hết phải cách mệnh chính bản thân mình đã”. Chủ thể tự đổi mới, tự cải biến, cách mạng là từng con người, theo “tư cách của người cách mệnh”, là từng tổ chức Đảng cho đến toàn Đảng mà Hồ Chí Minh ví như một cơ thể sống.
Khi Đảng chưa chính thức thành lập mới là mầm mống, phôi thai, Người đã nói về cách mệnh, đề xướng một quan niệm mà độ lùi thời gian càng xa, ta càng cảm nhận rõ quan niệm của Người ở tầm kinh điển. Trả lời cho câu hỏi “Cách mệnh là gì?”, Người xác lập một tư tưởng lớn, cô đọng, thấm thía rằng, cách mệnh là “phá cái cũ đổi ra cái mới”. Cái cũ phải phá đi là cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời, hư hỏng và mục nát. Cái mới phải xây dựng là cái mới tiến bộ, tốt đẹp, phát triển. Theo cách nói hiện đại ngày nay, đó là phương châm kết hợp xây và chống. Điều sâu xa, có ý nghĩa thời sự, sống động cùng thời gian là ở chỗ, một tác phẩm lý luận nói về cách mạng và đảng cách mạng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị cơ sở cho việc thành lập Đảng mà Người lại bắt đầu từ đạo đức, lại đề cập trước hết về “Tư cách của người cách mạng”.
Rõ ràng, trong xây dựng Đảng cách mạng không thể thiếu nội dung đạo đức, nói rộng ra là nhân cáchvà văn hóa. Đạo đức là cốt lõi, chính yếu của văn hóa. Với mỗi con người, sự trưởng thành về đạo đức, nhân cách được xem như sự trưởng thành về văn hóa. Người đảng viên cộng sản và Đảng Cộng sản do trọng trách lịch sử của mình đối với giai cấp (giai cấp công nhân), dân tộc và xã hội để thực hiện lý tưởng, mục tiêu cộng sản chủ nghĩa, một cách tất yếu và tự nhiên, phải đóng vai trò tiên phongtrong sự nghiệp cao cả mà mình theo đuổi, dấn thân. Vai trò tiên phong đó phải được thể hiện nhất quán từ nhận thức đến hành động, đó là sự giác ngộ, gương mẫu, có đức hy sinh và lòng dũng cảm.
Trung thành với lý tưởng, mục tiêu cách mạng, đòi hỏi không chỉ nhiệt tình, ý chí và nghị lực trong tranh đấu mà còn phải có hiểu biết, được vũ trang bởi lý luận tiên phong. Lênin đã từng nói, không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng, chỉ đảng nào được vũ trang bởi lý luận tiên phong mới làm tròn được sứ mệnh của đảng tiên phong. Ông cũng đòi hỏi những ai mang danh hiệu đảng viên cộng sản phải không ngừng học tập và rèn luyện để có thể kết hợp được nhiệt tình cách mạng với sự hiểu biết khoa học, đạt tới sự giác ngộ, có niềm tin dựa trên hiểu biết, niềm tin khoa học, đủ sức vượt qua những khó khăn, thử thách trong sự nghiệp đấu tranh rất gian lao, khó nhọc, đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Không phải ngẫu nhiên mà Lênin phân biệt “người cộng sản nhiệt tình” với “người cộng sản có học thức”.
Là người sáng lập ra học thuyết đảng kiểu mới, lại trực tiếp rèn luyện, lãnh đạo chính đảng cách mạng làm nên sự nghiệp vĩ đại với Cách mạng Tháng Mười, khai sinh CNXH hiện thực, đặt nền móng xây dựng CNXH ở nước Nga Xôviết, rồi cải cách CNXH với “Chính sách kinh tế mới” (NEP) nổi tiếng, Lênin đã xác định: “Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của thời đại”.
Hồ Chí Minh đã viết Sửa đổi lối làm việctừ năm 1947, khi sự nghiệp “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” mới bắt đầu, đã nhấn mạnh tới 12 điều xây dựng Đảng cách mạng chân chính.
Người khẳng định, Đảng ta là đạo đức, là văn minh.
Có thể nói vấn đề xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng đã cầm quyềnđược các lãnh tụ Đảng quan tâm, đặc biệt về phương diện đạo đứcvà văn hóa.
Cùng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức phải chú trọng thường xuyên xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa. Có mối quan hệ hữu cơ giữa các phương diện hợp thành nội dung xây dựng Đảng giữa chính trị - tư tưởng và tổ chức, giữa chính trị - tư tưởng - tổ chức với đạo đức và văn hóa. Giải quyết đúng đắn những mối quan hệ này cả trong nhận thức lý luận và trong thực tiễn công tác đảng mới có thể bảo đảm hiệu quả khi triển khai các hoạt động đổi mới và chỉnh đốntrong xây dựng Đảng hiện nay.
Hơn nữa, quyết tâm chính trị và trách nhiệm chính trị của Đảng ta trước yêu cầu mới của sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi Đảng phải ngang tầm nhiệm vụ, phải thực sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là một đảng lãnh đạo và cầm quyền. Đây cũng là mong muốn, là ý nguyện và kỳ vọng của nhân dân ta đối với Đảng của mình.
Nếu xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức là điều kiện cầnthì xây dựng Đảng về đạo đức và văn hóa mới là điều kiện đủlàm cho Đảng trong sạch vững mạnh. Nếu không chú trọng những bảo đảm tối cần thiết về phẩm chất đạo đức, nhân cách của đảng viên, nhất là đảng viên có trọng trách lãnh đạo ở các cấp ủy, ở người đứng đầu cấp ủythì khó có thể nói tới chất lượng, hiệu quả, tác dụng của chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Xét đến cùng đó là văn hóa của Đảng lãnh đạo và cầm quyền, là thước đo văn hóa để nhận biết trình độ phát triển của Đảng, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Đảng là uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân và xã hội, có sự đánh giá và thừa nhận của người dân. Bởi vậy, xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa chẳng những tạo ra những bảo đảm đạo đức và văn hóa cho chính trị, tư tưởng và tổ chức mà còn làm cho những giá trị đạo đức và văn hóa thẩm thấu bền bỉ, vững chắc vào toàn bộ đời sống của Đảng, vào các mối quan hệ con người và tổ chức, trong Đảng và ngoài Đảng.
Nhờ tác động, ảnh hưởng của đạo đức và văn hóa thâm nhập vào đời sống của Đảng, vào hoạt động của các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng mà chính trị thấm nhuần tính nhân văn và văn hóa, tư tưởng thực sự là tư tưởng khoa học và cách mạng, sáng tạo và đổi mới, tổ chức thực sự thể hiện các nguyên tắc, các chuẩn mực dân chủ và pháp quyền. Những chuyển biến tích cực đó đều đã được hình dung trong chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về Đảng cách mạng chân chính, Đảng là đạo đức, là văn minh.
Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy, nếu không chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức và văn hóa thì trong không ít trường hợp Đảng có nguy cơ thoái hóa và tha hóa. Chủ nghĩa cá nhân sẽ trỗi dậy trước những cám dỗ của tiền bạc, danh vọng, địa vị, quyền lực. Xa dân, quan liêu, tham nhũng, lời nói không đi đôi với việc làm, coi thường tổ chức và kỷ luật, chia rẽ, mất đoàn kết, trên thực tế đã xảy ra ở không ít người, không ít nơi. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” đã nêu rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏcán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, kể cả ở cấp cao. Như Đảng ta đã đánh giá, tình trạng suy thoái đó là nghiêm trọng, phổ biến, làm suy giảm niềm tin của dân đối với Đảng.
Thực trạng này không chỉ do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, mà còn là hệ quả của việc xem nhẹ xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa. Không ít những biểu hiện lệch lạc về động cơ vào Đảng, động cơ phấn đấu khi đã ở trong Đảng, xa lạ với bản chất, mục đích của Đảng, làm hoen ố thanh danh của Đảng. Rõ ràng, những yếu kém về đạo đức và văn hóa nếu chậm được khắc phục, nếu không nhận rõ sự cần thiết và tính bức xúc của việc xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa thì chẳng những không giải quyết được tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân mà còn làm cho Đảng tiếp tục suy yếu, đặt sinh mệnh của Đảng và cả sự tồn vong của chế độ trước những thách thức khó có thể vượt qua.
Hãy không bao giờ quên di huấn của Lênin, “Cách mạng phải có sức mạnh tự bảo vệ” và tư tưởng Hồ Chí Minh, “phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng”, “cách mạng lấy sức mạnh trong lòng dân”, “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thậttrong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1). Đó là những chỉ dẫn sâu xa nhất mà cũng trực tiếp nhất về xây dựng Đảng từ yêu cầu đạo đức và văn hóa.
Chưa bao giờ, xây dựng Đảng về văn hóa, đặc biệt là văn hóa đạo đức trong Đảng trở nên cần thiết, hệ trọngvà bức xúcnhư lúc này.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XII thẳng thắn thừa nhận rằng, “Đảng chưa thật sự trong sạch vững mạnh”(2). Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về văn hóa và con người, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới cũng như dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII là những văn kiện đã lần đầu tiên nêu lên và nhấn mạnh vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa với những kiến giải sâu sắc và tường minh. Điều đó, một mặt cho thấy tầm quan trọng của vấn đề đặt ra, mặt khác, trên bình diện nhận thức, đây là những điểm mớiđánh dấu bước tiến mới về tư duy lý luận của Đảng, làm phong phú và sâu sắc thêm những sở cứ xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa trong điều kiện Đảng cầm quyền, mở cửa, hội nhập quốc tế.
2. Xây dựng Đảng về văn hóa - tầm nhìn và hành động
Một là, nhận thức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa học vấn và văn hóa, giữa đạo đức và nhân cách
Để nhận thức đúng xây dựng Đảng vềvăn hóa là xây dựng những gì(nội dung) và xây dựng như thế nào(phương pháp) cần phải bắt đầu từ một quan niệm chung về văn hóa, từ đó thấy rõ mối quan hệ giữa văn hóa với Đảng và Đảng với văn hóa trong đời sống chính trị của Đảng, trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.
Hai tiền đề đặt ra có ý nghĩa phương pháp để xây dựng nhận thức khoa học về văn hóa:
Mối quan hệ giữa học vấn, học thức với văn hóa. Học vấn chỉ là cơ sở nhận thức, là trình độ hiểu biết của mỗi người với những tích lũy về tri thức, cả tri thức kinh nghiệm lẫn tri thức lý luận mà con người thâu nhận được qua học tập trong nhà trường và tự học suốt cuộc đời, trong hoạt động thực tiễn để hình thành văn hóa ở mỗi người. Học vấn đóng vai trò chuẩn bị, tạo dựng tiềm năng trí tuệ cho con người hình thành văn hóa rồi từng bước trưởng thành văn hóa. Không thể xác lập một cách giản đơn quan hệ tỷ lệ thuận giữa học vấn với văn hóa, rằng, học vấn cao thì văn hóa cao, học vấn thấp thì văn hóa thấp, không có học vấn (mù chữ) thì không có văn hóa. Một cách tương đối, có thể đo lường được trình độ học vấn, qua các dấu hiệu văn bằng, chứng chỉ nhưng văn hóa, trình độ văn hóa thì không thể xác định dễ như vậy được. Văn hóa cao hơn, rộng hơn, phong phú và sâu sắc hơn rất nhiềuso với học vấn. Những trải nghiệm thực tiễn từ cuộc sống sinh động đã cho thấy, không ít trường hợp học vấn cao nhưng văn hóa thấp, thậm chí thiếu hụt văn hóa, nhất là trong ứng xử với người, với công việc, với tổ chức và cộng đồng, ngay cả với chính mình. Ngược lại, có khi học vấn chỉ ở mức độ vừa phải nhưng con người vẫn tự biểu hiện mình như một chủ thể văn hóa tinh tế, cao quý, đáng trọng nể. Bà mẹ Việt Nam truyền thống trong quá khứ đói nghèo, lam lũ, thất học, có khi cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng nhưng vẫn thuộc lòng ca dao, cổ tích, truyện Kiều và lời ru tiếng hát của mẹ đã làm nên nhân cách của các thế hệ con cháu, trong khi đó, không ít các bà mẹ trẻ thời hiện đại, không thiếu học vấn, bằng cấp nhưng lại thiếu lời ru tiếng hát dạy con mình.
Vậy là, muốn cho học vấn trở thành văn hóa thì những hiểu biết từ tri thức sách vở phải chuyển hóa thành phương pháp, từ nhận thức đến hành động để có ứng xử văn hóa. Dĩ nhiên, học vấn rất quan trọng. Trong xã hội hiện đại không thể thiếu học vấn để giáo dưỡng, giáo dục văn hóa cho con người và xây dựng tiềm lực văn hóa của quốc gia - dân tộc. Vấn đề là ở chỗ, muốn chiếm lĩnh và làm chủ học vấn, con người phải thực học, có thực lựcđể trở nên thực nghiệpvà thực tài. Nỗ lực đạt tới những hướng đích ấy ở những con người tử tế, lương thiện, có lòng tự trọng là một nỗ lực văn hóa.
Trong xã hội ta - một xã hội đang hướng tới văn minh, hiện đại, trong Đảng ta - một Đảng cách mạng chân chính, niềm tự hào của dân tộc và nhân dân, nhất định phải coi trọng, quý trọng những chân giá trị, những nhân tài và phải kiên quyết lên án, loại bỏ những giả giá trị, những cái giả dối, những “học giả”, “bằng giả”, cả “những bằng thật” nhưng “hiểu biết giả”, “trình độ giả” do mua bán bằng tiền để đổi lấy hư danh, thỏa mãn thói háo danh, lừa dối tổ chức và nhân dân. Đã xảy ra không ít những hiện tượng, trường hợp như vậy, nó cũng là một thứ tệ nạn, bất minh, phản văn hóa.
Phương pháp là công cụ để con người tự giác, sáng tạo, tự sản xuất ra tri thức. Phương pháp dựa trên tri thức nhưng là trình độ tri thức đã trưởng thành, đã chuyển hóavào bên trong chủ thể, thành nhu cầu sáng tạo và tự hoàn thiệncủa chủ thể. Đến trình độ ấy, học vấn mới thành văn hóa, biểu hiện thành nhu cầu, thành giá trị(ham học, ham làm, ham tiến bộ - lời Người khuyên thanh niên), thành mong muốn, khát vọng tìm tòi chân lý (cái đúng, cái thật), xây dựng động cơ, theo đuổi mục đích sống và hoạt động, sao cho hữu dụng, hữu ích, thiện tâmtrở nên tốt đẹp, thiện chívới người, với đời, vị thachứ không vị kỷ.
Trong ý nghĩa đích thực, chân chính của nó, học vấn, chủ sở hữu học vấn không chỉ là lý trí mà còn là tình cảm, không chỉ là khoa học mà phải trở thành đạo đức, hiểu biết để có lẽ sống và lối sống đúng, tốt và đẹp, kết tinh ở lý tưởng cộng sản mà chúng ta theo đuổi. Sự kết hợp, thống nhất, nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn, giữa nhận thức và hành động, giữa nói và làm là thước đo năng lực văn hóa. Hồ Chí Minh là một mẫu mực điển hình về phẩm chất và năng lực ấy cho chúng ta noi theo, học tập và làm theo.
Mối quan hệ giữa đạo đức và nhân cách. Nếu không thể đồng nhất học vấn với văn hóa(*) thì cũng không thể đồng nhất đạo đức với nhân cách.
Đạo đức là gốc của nhân cách, là thành phần cốt yếu, quan trọng và quyết định nhất trong cấu trúc nhân cách. Trong cấu trúc ấy có quan hệ chủ đạo, nổi bật và điển hình là quan hệ đức - tài. Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn rất rõ ràng, đức là gốc, tài là quan trọng, có đức phải có tài, có tài phải có đức. Người nhấn mạnh, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, thậm chí làm hỏng việc. Có tài mà không có đức thì nguy hiểm, có thể làm việc xấu, việc hại một cách có tính toán, có chủ ý, như thế hậu quả nặng hơn rất nhiều so với người mắc những lỗi lầm tương tự do thiếu hiểu biết, do vô thức.
Tầm quan trọng của đạo đức lớn đến như vậy nên trong đời sống thường ngày, theo kinh nghiệm và thói quen ứng xử ta thường đồng nhất đạo đức với nhân cách, dẫn đến cách đánh giá, người có đạo đức là người có nhân cách, đồng nhất đạo đức với nhân cách. Quan niệm này bộc lộ một hạn chế, nó đúng một cách không đầy đủ. Cần nhận rõ, đức là điều kiện cần, nó phải được bổ sung điều kiện đủ là tài, hơn nữa, đức và tài phải gắn chặt với nhau như hai mặt của cùng một vấn đề - nhân cách. Có hai biểu hiện không đúng cần khắc phục: hoặc tách rời đức và tài, hoặc tuyệt đối hóa mặt này để xem nhẹ, phủ nhận mặt kia, dẫn đến nhận diện nhân cách một cách lệch lạc, phiến diện.
Tư duy biện chứng về nhân cách đòi hỏi phải thấm nhuần quan điểm thực tiễnvà quan điểm phát triển trong nghiên cứu đức - tài và nhân cách như một giá trị văn hóa.
Đạo đức, nhất là đạo đức của người cách mạng là đạo đức hành động, trong hoạt động tranh đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, phải là đầy đủ, trọn vẹn cả bốn đức của đạo làm người: cần, kiệm, liêm, chính. Đó còn là phép ứng xử, đối nhân xử thế: chí công vô tư. Những chuẩn mực (đức tính) và những nguyên tắc xử sự đó là cô đúc, ngắn gọn nhất lý luận đạo đức học mác xít của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ dân và vì dân, đó là mục đích, bản chất của đạo đức cách mạng, đem ra thực hành thành hiện thực của lẽ sống, lối sống để đạo đức trở thành văn hóa đạo đức, cốt lõi của văn hóa nhân cách. Hồ Chí Minh là kiểu mẫu của đạo đức và văn hóa, của thực hành đạo đức và văn hóa đạo đức như thế.
Người mãi mãi là hiện thân của văn hóa đạo đức, văn hóa nhân cách, một nhân cách văn hóa cho muôn đời noi theo. Như thế, không thể tách rời đức với tài, tài với đức. Nếu xuất phát từ hành động và hiệu quả, từ động cơ và mục đích sống mà xem xét thì đạo đức phải biểu hiện thành năng lực và năng lực phải được bảo đảm bởi đạo đức, chính trị và chuyên môn, đức và tài là một chỉnh thể trong nhân cách.
Cần phải khắc phục triệt để quan niệm sai lầm đã từng có, từng mắc phải: tách rờivàtuyệt đối hóahoặc đức hoặc tài, nhất là ngày nay, khi đi vào kinh tế thị trường, hội nhập, thông tin và công nghệ thông tin, người ta thường chạy theo bằng cấp, danh vị, xem nhẹ đạo đức, thậm chí chạy theo các giá trị phương Tây, coi thường và phỉ báng truyền thống. Đó là sự lệch lạc nguy hiểm về đạo đức, nhân cách, thể hiện trong thị hiếu, lối sống. Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích vật chất, tiền bạc, các tiện nghi thường được đề cao, lan tràn tâm lý sống hưởng thụ, thực dụng. Đề cao cái lợi thường đi liền với cái danh, hư danh, phù phiếm. Năng lực được hiểu một cách thực dụng, trần trụi, tách rời đạo đức. Nó biện minh cho những sai trái đạo đức, hiểu tài - đức một cách siêu hình, máy móc, thậm chí rẻ rúng, tầm thường hóa những giá trị truyền thống mà chúng ta đã từng coi là thiêng liêng, cao quý trong đời sống đạo đức, văn hóa tinh thần.
Rõ ràng, phải gắn liền đức với tài làm một. Phải trên quan điểm thực tiễn, quan điểm đời sống, phải tựa vững chắc trên mục đích xã hội, vì dân, vì sự phát triển cộng đồng để hiểu và đánh giá đúng thực đứcvà thực tài. Người được coi là có đạo đức phải là người hành động trung thực, tận tụy, trách nhiệm với xã hội, với cuộc sống của dân chứ không chỉ bó hẹp tu dưỡng tâm tính của mình, vì mình. Giáo dục thái độ đạo đức nổi bậtở giáo dục thái độ trách nhiệm, dũng khí đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái giả dối, thói vụ lợi, cơ hội. Thái độ dửng dưng, vô cảm, tự cho mình đứng ngoài cuộc, lảng tránh và từ chối trách nhiệm chỉ có thể là thái độ yếu kém, tự suy thoái về đạo đức, về nhân tính (tính người, tình người). Trường hợp ấy dù học vấn, học thức, bằng cấp đủ đầy vẫn là vô đạo.
Xây dựng Đảng về văn hóa, tổ chức giáo dục và thực hành văn hóa trong Đảng, trước hết cần làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần quan hệ đức - tài nêu trên để có nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc rèn luyện đồng thờicả đạo đức lẫn năng lực; thường xuyên tự tu dưỡng, tự rèn luyện, nhằm hoàn thiện nhân cách của mình trong học tập, lao động, công tác và hoạt động thực tiễn. Nó gắn liền mật thiết với việc trau dồi học vấn, tích lũy kinh nghiệm, vốn sống, nâng cao trình độ lý luận, gắn liền lý luận với thực tiễn, sao cho học vấn trở thành văn hóa, đạo đức gắn liền với năng lực trở thành nhân cách. Xây dựng văn hóa trong Đảng phải bắt đầu từ việc nhận thức đúng và giải quyết tốt những mối quan hệ đó trong hoạt động, trong công tác thực tế và đời sống hàng ngày ở mỗi đảng viên, mỗi tổ chức Đảng, trong quan hệ giữa Đảng với dân. Chính quần chúng nhân dân là nhữngngười có tiếng nói đánh giá khách quan về học vấn và văn hóa, về đạo đức và nhân cách của đảng viên, khi họ tiếp xúc, quan sát, giám sát thái độ, hành vi, hoạt động và lối sống của cán bộ đảng viên chúng ta. Đảng viên tốt thì chi bộ tốt. Chi bộ tốt thì toàn Đảng mới mạnh. Đảng trong sạch vững mạnh trong sự nhìn nhận, đánh giá, góp ý phê bình, giúp đỡ xây dựng của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh “phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng” có ý nghĩa sâu xa như vậy, từ xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức đến xây dựng Đảng về đạo đức văn hóa.
Để cho đạo đức và văn hóa thấm nhuần trong mỗi đảng viên, thấm sâu trong đời sống của Đảng, trong nội dung và phương pháp xây dựng Đảng ở tất cả mọi lĩnh vực, mọi mối quan hệ, mọi tổ chức Đảng, từ cơ sở tới Trung ương, cần phải tiến hành công phu hoạt động giáo dục, tuyên truyền, tạo thành dư luận xã hội rộng rãi, đề cao đạo đức, hình thành nhu cầu văn hóa, xây dựng và thực hành lối sống có đạo đức, có văn hóa, trong Đảng, trong dân. Phải chú trọng định hướng giá trị và giáo dục giá trị của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Trong giáo dục và thực hành giáo dục giá trị để xây dựng văn hóa trong Đảng phải đặc biệt coi trọng các đức tính, các chuẩn mực sau đây: trung thực và tận tụy, khiêm nhường và giản dị, gương mẫu và trách nhiệm, vị tha - nhân ái - khoan dung. Những đức tính, chuẩn mực giá trị đó sẽ định hình diện mạo nhân cách con người, nó bao hàm cả học vấn, đạo đức, cả năng lực và phẩm chất để tạo ra nhân cách đảng viên và văn hóa trong Đảng, văn hóa của Đảng cầm quyền. Xây dựng văn hóa trong Đảng phải làm cho văn hóa là động lực sâu xa của chính trị, có sức mạnh và tác dụng văn hóa hóa, nhân văn hóa chính trị, làm cho chính trị không bị tha hóa, quyền lực không làm hư hỏng con người.
Hồ Chí Minh, từ những ngày đầu xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa đã từng khát vọng, dân tộc Việt Nam nhất định phải trở thành một dân tộc thông thái, văn hóa soi đường cho quốc dân đi, chấp nhận cuộc kháng chiến trường kỳ, thà hy sinh tất cả, quyết không chịu làm nô lệ để quyết bảo vệ nền độc lập tự do, tin tưởng mãnh liệt rằng “kháng chiến tất thắng kiến quốc tất thành”. Người chủ trương “kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến”. Đó là cả một triết lý thực tiễn về mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị. Người đồng thời ra Lời kêu gọi “Thi đua ái quốc” (1948), “Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua”, đó là văn hóa chính trị nổi bật trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện cả dân tộc đã đi qua.
Người cũng trù tính rằng, phải đem văn hóa để chữa trị thói quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng, để sửa chữa thói phù hoa xa xỉ. Và giờ đây, xây dựng Đảng về văn hóa làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, dùng sức mạnh văn hóa như một xung lực, một giá trị nội sinhđể phòng, chống suy thoái trong Đảng. Tổ chức Đảng muốn thực sự là tổ chức cách mạng tiên phong thì đảng viên của Đảng phải thể hiện đầy đủ tư cách đảng viên trong đổi mới: là người lao động giỏi, người công dân gương mẫu và người chiến sỹ tiên phong trong đổi mới(3). Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã đề cập tới tầm nhìn văn hóa và văn hóa chính trị sâu sắc đến như vậy. Nếu tổ chức thực hiện tốt, nghiêm túc chắc chắn đã không để xảy ra tình trạng suy thoái. Chỉ tiếc là, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết vẫn là yếu kém kéo dàichưa khắc phục được trong đời sống của Đảng. Yếu kém này cũng là yếu kém về văn hóa, văn hóa lãnh đạo, quản lý của chúng ta. Nếu coi đây là “điểm nghẽn văn hóa” thì phải đột phá từ đây để vượt qua, để phát triển. Xây dựng Đảng về văn hóa là vấn đề chiến lược mà cũng là giải pháp đột phá trong xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1, 2 -2016
(1) Xem: Hồ Chí Minh: Di chúc,(1965 - 1969).
(2) ĐCSVN: Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, Hà Nội, 2015, tr.31.
(3) ĐCSVN: Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX (2002) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, phường, thị trấn - gọi chung là cấp xã).
Hội đồng Lý luận Trung ương
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 75 năm truyền thống vẻ vang
Giới thiệu Tạp chí in
Tin Ảnh
Tóm tắt bài Tạp chí in số mới nhất
- Nâng cao năng lực lãnh đạo chiến lược của Đảng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đến giữa thế kỷ XXI
- Giải pháp tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, tạo động lực phát triển trong thời kỳ mới
- Hiện thực hóa khát vọng “quốc gia hùng cường” của Việt Nam
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
- Các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh