Trang chủ    Nghiên cứu lý luận    Việt Nam 30 năm đổi mới - Thách thức và thành công
Thứ ba, 25 Tháng 10 2016 16:31
17620 Lượt xem

Việt Nam 30 năm đổi mới - Thách thức và thành công

(LLCT) - Trước yêu cầu khách quan và cũng là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, Đảng đã quyết định thực hiện đổi mới. Công cuộc đổi mới gặp phải các thách thức, những nguy cơ lớn và nhiều khó khăn. Nhưng quán triệt bài học lớn: luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, toàn diện trên các lĩnh vực.

Thắng lợi có được khi phải vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề, ý nghĩa của thắng lợi đó càng lớn lao, quý giá. Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước đây và công cuộc đổi mới 30 năm qua do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện vị thế của đất nước và dân tộc Việt Nam.

Đại hội VI của Đảng (12-1986) là bước ngoặt lịch sử khẳng định bước phát triển căn bản trong nhận thức lý luận về CNXH và quá độ lên CNXH ở Việt Nam, đó là chú trọng nhận thức quy luật khách quan và đặc điểm thực tiễn của đất nước để hoạch định đường lối, chính sách. Bài học lớn rút ra là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(1). Những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về CNXH và quá độ lên CNXH được Đảng ta nghiên cứu nghiêm túc và nhận thức đúng đắn. Đó là cơ sở khoa học để đi đến quyết định đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, kết hợp kế hoạch với thị trường, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Những năm đầu đổi mới, các quyết sách của Đảng và Nhà nước tập trung chuyển đổi các chính sách kinh tế - xã hội, thực hiện nhất quán phát triển nhiều thành phần kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý, thúc đẩy sự phát triển của thị trường và do đó đã có được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Năm 1989, Việt Nam đã xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới. Lạm phát đã được kiềm chế từ 774,7% năm 1986 xuống còn 60% năm 1990.

Công cuộc Đổi mới đang phát triển đã gặp phải một thách thức rất lớn. Đó là cuộc khủng hoảng của các nước XHCN dẫn tới sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô (1989-1991), chúng ta mất đi sự giúp đỡ của các nước anh em. Đảng ta nhận thức rõ, thất bại của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một tổn thất lớn của cách mạng thế giới và là một thách thức đối với con đường XHCN ở Việt Nam. Thách thức cả về thực tiễn và nhận thức lý luận, về niềm tin. Để vượt qua khủng hoảng và thách thức nặng nề đó, đòi hỏi Đảng nêu cao bản lĩnh chính trị, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận và kiên định con đường XHCN với những hình thức, bước đi, giải pháp thích hợp. Định hướng đúng đắn về tư tưởng, lý luận ở thời điểm khó khăn, phức tạp đó có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển đất nước. Đảng nhấn mạnh phải “Quán triệt bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành tựu khoa học của thế giới”. “Công tác lý luận phải khẳng định và làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm rõ những vấn đề cần nhận thức cho đúng, những vấn đề cần tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và phát triển trên cơ sở tổng kết và khái quát những kinh nghiệm thực tiễn mới và những thành tựu của khoa học hiện đại”(2).

Việc bác bỏ chủ nghĩa đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập đã làm thất bại sự chống phá của các thế lực thù địch, bảo đảm cho thành công của công cuộc đổi mới.

Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định bước phát triển mới về thực tiễn và nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đại hội khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; nêu rõ đường lối đối ngoại của Việt Nam là bạn của các nước trên thế giới. Sau Đại hội VII, đất nước chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, phát triển có hiệu quả các thành phần kinh tế; thực hiện chiến lược ổn định, phát triển kinh tế đến năm 2000; thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, nhất là chính sách xóa đói, giảm nghèo; thực hiện CNH, HĐH; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; tăng cường đổi mới và chỉnh đốn Đảng.

Đại hội VIII của Đảng (6-1996) khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Những năm đầu thập niên 90, Việt Nam cũng ra khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận: bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), với Mỹ (1995), gia nhập ASEAN (1995), thúc đẩy quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản và khởi động tích cực quá trình hội nhập quốc tế.

Thực tiễn đổi mới đã bộc lộ những yếu kém, khó khăn mới. Đảng ta đã xác định 4 nguy cơ lớn: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước; nguy cơ chệch hướng XHCN; nguy cơ về tệ tham nhũng và nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Trên thực tế, những nguy cơ đó đã tồn tại trong suốt quá trình đổi mới và có những mặt diễn biến ngày càng phức tạp.

Những năm cuối của thập niên 90, công cuộc đổi mới đã phải đối mặt với thách thức mới: cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế của các nước Đông Nam Á và châu Á (1997-2000). Cuộc khủng hoảng đó đã ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế Việt Nam. Khuyết điểm chủ quan trong chủ trương, lãnh đạo và điều hành đã dẫn tới nhịp độ tăng trưởng kinh tế chậm dần. Tăng trưởng GDP 5 năm 1996-2000 bình quân 7%, nhiều chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra.

Mười năm đầu thế kỷ XXI, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) do Đại hội IX của Đảng (4-2001) đề ra và sự phát triển quan điểm, chủ trương của Đại hội X (4-2006) đã thúc đẩy đổi mới toàn diện, đẩy mạnh CNH, HĐH, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế. Từ cuối năm 2007, đầu năm 2008 diễn ra khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng xấu đến kinh tế, xã hội của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Đại hội XI của Đảng (1-2011) nhận định, bên cạnh những thuận lợi, đất nước “gặp nhiều khó khăn, thách thức do những yếu kém vốn có của nền kinh tế, thiên tai, dịch bệnh, diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; các hoạt động chống phá, kích động bạo loạn, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”(3).

Đại hội XI đánh giá những thành tựu và những hạn chế, yếu kém của 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011, đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 với các quan điểm phát triển, các đột phá chiến lược và định hướng phát triển trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoàn thiện thể chế và phát triển nhận thức về kinh tế thị trường. Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị. Tăng cường quốc phòng, an ninh thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại, tích cực chủ động hội nhập quốc tế.

Tổng kết 30 năm đổi mới, Dự thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và nêu rõ 5 bài học. Để có được thành tựu to lớn, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã phải đối mặt và vượt qua những thách thức nặng nề. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước (1979 - 1996). Khủng hoảng và đổ vỡ của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu, Liên Xô (1989 - 1991). Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2007 đến nay. Bốn nguy cơ Đảng nêu ra từ năm 1994 đến nay vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn, tiếp tục là thách thức lớn. Thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức luôn luôn tồn tại đan xen nhau. Trong thách thức lớn, công cuộc đổi mới đã giành được những thắng lợi với những chuyển biến căn bản:

- Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (từ 1996). Đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, hành chính, bao cấp, kinh tế hiện vật khép kín sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Không ngừng phát triển nhận thức và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

CNH, HĐH được đẩy mạnh, đạt được những thành quả quan trọng và được nhận thức rõ hơn gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

- Đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được hiến định, làm rõ trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. Nhận thức rõ hơn và coi trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN với những đặc trưng cơ bản. Đó là Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhà nước đề cao vai trò tối thượng của pháp luật, Hiến pháp và hệ thống pháp luật điều chỉnh mọi quan hệ của đời sống xã hội. Các quyền con người, quyền công dân được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, tăng cường dân chủ gắn liền với kỷ cương, kỷ luật. Chú trọng xây dựng, củng cố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị, thực hiện tốt hơn chức năng giám sát và phản biện xã hội.

- Giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển văn hóa, con người, chú trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội: lao động-việc làm; giảm nghèo bền vững; chăm sóc sức khỏe; chính sách ưu đãi người có công; chính sách an sinh xã hội. Đã chú trọng vấn đề mô hình, phương thức phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, vấn đề phân hóa giàu nghèo. Gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng: dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. “Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”(4).

- Cùng với xây dựng, phát triển đất nước, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn bạo loạn, lật đổ, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.

- Thực hiện nhất quán và thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhận thức về thời đại, về thế giới và khu vực ngày càng đầy đủ hơn. Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Các nước có chế độ chính trị, trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại hòa bình, hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Thế giới đa cực ngày càng rõ hơn. Sự tồn tại chiến lược của các nước lớn. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền, áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Nhận thức rõ hơn về thời đại để có chính sách đối ngoại, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

Thực hiện đường lối đổi mới luôn luôn đặt ra những vấn đề từ thực tiễn cần phải tổng kết và kết hợp với nghiên cứu lý luận. Quá trình đó đã từng bước làm sáng tỏ nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam và đặt ra những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết. Đã nhận thức rõ hơn 8 đặc trưng của xã hội XHCN ở Việt Nam. Những đặc trưng đó đang từng bước được hiện thực hóa. Nhận thức rõ hơn những vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và những bước đi, chặng đường của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Thấy rõ hơn khả năng và nội dung bỏ qua chế độ TBCN và những gì có thể kế thừa, phát triển những thành quả mà loài người đạt được dưới CNTB.

Trải qua 30 năm đổi mới, có nhiều thành công và cũng còn những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém, Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã tổng kết một số bài học.

Từ những bài học quan trọng đó, Đại hội XII chủ trương đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Những quyết sách lớn của Đại hội XII bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2016

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 363.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 22-23

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.16.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 48-49.

 

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền