Trang chủ    Thực tiễn    Lao động việc làm trong quản lý phát triển xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay
Thứ ba, 30 Tháng 10 2018 10:16
2354 Lượt xem

Lao động việc làm trong quản lý phát triển xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay

(LLCT) - Sau hơn 30 năm đổi mới, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã đạt được những thành tựu nổi bật; trong đó có quản lý lao động việc làm. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục để nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập quốc tế hiện nay.             

 

1. Thực trạng lao động việc làm và quản lý lao động việc làm khu vực nông thôn

Nhiều năm qua,nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề;các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới, kết cấu ngành nghề thay đổi nhanh theo chiều hướng tích cực (tăng tỷ lệ hộ công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ lệ hộ nông,lâm,thủy sản); các khu công nghiệp, cụm công nghiệpvà làng nghề đang phát triển mạnh ở nông thôn. Lao động việc làm ở khu vực nông cũng có nhiều thay đổi, người nông dân năng động, chủ động, sáng tạo hơn trong nền kinh tế thị trường; việc làm ngày càng đa dạng, thu nhập của nông dân liên tục tăng.

Bên cạnh đó, quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn còn nhiều bất cập,chưa tương xứng với tiềm năng: Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệpchưa cao, vệ sinh an toàn thực phẩm kém, kiểm soát dịch bệnh còn nhiều bất cập, quản lý môi trường kém, tài nguyên bị khai thác quá mức, năng suất lao động nông nghiệp không cao vàkhả năng cạnh tranh thấp. Nông thôn vẫn là nơi có tỷlệ nghèo cao, chiếm 92% số hộ nghèo củacả nước, trong đó,đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 50% số hộ nghèo(1). Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn cao và chất lượng việc làm thấp, ảnh hưởng lớn đến đời sống, thu nhập của dân cư nông thôn.

Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, trong đó nhận thức về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nông thôn còn nhiều hạn chế, dẫn đến tình trạng coi trọng công tác quản lý kinh tế, xem nhẹ công tác quản lý phát triển xã hội; các biện pháp quản lý phát triển xã hội ở nông thôn thực hiện chưa hiệu quả. Để khu vực nông thôn phát triển nhanh, bền vững thì không chỉ coi trọng phát triển kinh tế mà rất cần chú ý đến phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay, trong đó có vấn đề quản lý lao động việc làm khu vực nông thôn theo hướng đa dạng hóa ngành nghề, bảo đảm về số lượng và chất lượng việc làm, tạo việc làm bền vững.

Có thể khái quát thực trạng lao động việc làm khu vực nông thôn hiện nay như sau:

Thứ nhất, về số lượng và cơ cấu ngành của việc làm khu vực nông thôn. Theo điều tra của Bộ Kế hoạch và đầu tư, lực lượng lao động cả nước năm 2016 là 54,4 triệu người, trong đó, lực lượng lao động của khu vực nông thôn chiếm 68,3% (năm 2016)(2). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị. Cả nước có khoảng 10,9 triệu người có việc làm, trong đó chỉ có 20,6% đã được đào tạo(3) đã tham gia các khóa bồi dưỡng, dạy nghề ngắn hạn hoặc dài hạn được cấp chứng chỉ nghề hoặc văn bằng từ trung cấp chuyên môn nghiệp vụ trở lên. Có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn. Tỷ lệ lao động có việc làm đã qua đào tạo ở nông thôn rất thấp: 12,8% (thành thị: 37,2%), trong đó, dạy nghề là 3,8%; trung cấp: 3,1%; cao đẳng: 2,0%; từ đại học trở lên: 3,9%(4). Như vậy, đại bộ phận lao động có việc làm ở nông thôn hiện nay là loại lao động giản đơn chưa được đào tạo, chất lượng việc làm thấp, độ rủi ro cao trong cơ chế thị trường. Về cơ cấu việc làm, năm 2016, 41,9% lao động làm việc trong khu vực nông, lâm, thủy sản. So với năm 2015 đã có sự chuyển dịch của lao động khu vực này sang khu vực công nghiệp và xây dựng. Đây là một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế của cả nước.

Thứ hai, về điều kiện làm việc và chất lượng việc làm ở nông thôn nước ta hiện nay. Phần lớn lao động ở nông thôn thuộc loại lao động tự làm và lao động gia đình. Trong toàn bộ nền kinh tế, tỷ trọng lao động tự làm và lao động gia đình chiếm 56,0% (29,8 triệu người), gấp gần 1,5 lần so với tỷ trọng người làm công ăn lương. Trong đó, 4/5 số lao động tự làm và lao động gia đình sống ở khu vực nông thôn (chiếm 64,8% tổng số lao động loại hình này)(5). Đây là nhóm lao động yếu thế, công việc không ổn định và hầu như không được hưởng một loại hình bảo hiểm xã hội nào.

Tỷ trọng lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn là 28,5%(6). Như vậy, đại bộ phận việc làm ở nông thôn hiện nay tập trung trong các ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản. Thu nhập từ việc làm bình quân - tháng của lao động làm công ăn lương ở khu vực nông nghiệp trong các ngành nông, lâm, thủy sản nhìn chung thấp: năm 2016 là 3,315 triệu đồng  - tháng(7). Với mức thu nhập này, nhìn chung đời sống của người lao động ở nông thôn còn gặp nhiều khó khăn trong khi giá cả sinh hoạt cao.

Năm 2016, cả nước có trên 1,1 triệu lao động thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên, trong đó tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị là 46,1%; ở nông thôn là 53,9% (khoảng 616,3 nghìn người)(8). Tỷ lệ lao động thiếu việc làm (việc làm không ổn định) trong độ tuổi lao động ở nông thôn là 2,1% (thành thị là 0,7%). Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có tỷ lệ lao động thiếu việc làm cao nhất với 3,1%; thấp nhất là ở vùng Đông Nam Bộ: 0,5%(9)

Thứ ba, lao động, việc làm dưới tác động của thị trường lao động. Trong cơ chế thị trường và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, một bộ phận lớn con em nông dân làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất… Song sau 10 - 20 năm, nhiều người lao động bị sa thải do sức khỏe suy giảm, chuyên môn thấp... Đặc biệt, hiện tượng thất nghiệp của một bộ phận lao động trẻ (trong độ tuổi từ 30 - 40 tuổi) sau một thời gian lao động trong khu vực công nghiệp đang ngày càng gia tăng do bị giới chủ sa thải. Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, Quý IV năm 2017, trong tổng lực lượng lao động cả nước có gần 800,4 nghìn lao động thiếu việc làm và 1,1 triệu lao động thất nghiệp, gần 85,7% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực nông thôn(10). Khi trở về nông thôn, họ gặp nhiều khó khăn nếu không được Nhà nước, các cấp, các ngành, chính quyền địa phương quan tâm giải quyết sẽ gây nhiều hệ lụy: tệ nạn xã hội, bất ổn về trật tự an ninh, xã hội, thậm chí hình thành những điểm nóng, những xung đột chính trị - xã hội…

Thực trạng quản lý lao động việc làm

Ngày 5-8-2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết số 26/NQ-TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban CHấp hành Trung ương Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong Nghị quyết này, vấn đề nông nghiệp,nông dân,nông thôn được đề cập toàn diện: “Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóalớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường”. Nghị quyết ra đời đã tạo những chuyển biến quan trọng cả về nhận thức và hành động, có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, mà còn đối với vấn đề việc làm cho nông dân.

Để đưa Nghị quyết vào cuộc sống, nhiều chính sách liên quan đến vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có vấn đề lao động việc làm nông thôn đã được Nhà nước ban hành, như:

Quyết định số1956-QĐ-TTg, ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Trong đó khẳng định:Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn; Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Quyết địnhsố 52-2012-QĐ-TTgvề chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Quyết định này quy định chính sách giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp trên phạm vi cả nước khi Nhà nước thu hồi đất.

Quyết định số 46-2015-QĐ-TTg quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng cho đối tượng người học là phụ nữ, lao động nông thôn, người khuyết tật tham gia học các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng. Trong đó, ưu tiên người khuyết tật và các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp, đất kinh doanh, lao động nữ bị mất việc làm, ngư dân; các cơ quan tổ chức, cá nhân liên quan.

Quyết định số  800-QĐ-TTg, Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 (đến nay Chương trình đang được triển khai giai đoạn hai 2016-2020). Chương trình đã thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Qua đó, phát huy được nhiều cách làm sáng tạo góp phần huy động được nhiều nguồn lực đóng góp cho xây dựng nông thôn mới, đồng thời mở ra những hướng mới trong tạo việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn hiệu quả.

Để thực hiện các Nghị quyết và Quyết định nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai các hoạt động thu thập thông tin thông qua điều tra nhu cầu sử dụng lao động trong các doanh nghiệp, khảo sát, ghi chép cập nhật cung, cầu lao động, phân tích, tổng hợp dữ liệu từ các cuộc điều tra về lao động, việc làmtrên cả nước, trong đó có địa bàn nông thôn. Trên cơ sở đó,xây dựng các báo cáo xu hướng việc làm, các bản tin cập nhật vềthị trường lao động, giúp các cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở để hoạch định chính sách, các cơ sở đào tạo xây dựng kế hoạch đào tạo và tuyển sinh phù hợp, người sử dụng lao động và người lao độngnắm bắt được nguồn cung, cầu lao động hiện có trên thị trường và xu hướng tuyển dụng lao động.

Hỗ trợ người lao động ở nông thôn tạo việc làm thông qua việc vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm. Năm 2016, thông qua Quỹ quốc gia về việc làm hỗ trợ tạo việc làm cho khoảng 105 nghìn lao động; năm 2017, hỗ trợ tạo việc làm cho trên 114 nghìn lao động, trong đó chủ yếu là lao động ở khu vực nông thôn (chiếm khoảng 90%)(11).

Tập trung phát triển và hình thành hệ thống các Trung tâm dịch vụ việc làmnhằm tăng cường kết nối cung - cầu lao động, rút ngắn thời gian tìm việc của người lao động, thời gian tuyển dụng của người sử dụng lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn, góp phần tăng trưởng và giải quyết việclàmcho người lao động.

Bên cạnh những thành tựu đạt được trong quản lý phát triển xã hội nông thôn, trong đó có vấn đề quản lý lao động, việc làm khu vực nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể:

  • Đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế.Đầu tư công cho khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng thấp, dàn trải, chưa đáp ứng được nhu cầu (vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp giai đoạn 2011 – 2015 đạt 304.500 tỷ đồng, bằng 1,71% GDP và bằng 5,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội). Vốn đầu tư tư nhân ít, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng dưới 2%), chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ(12). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề giải quyết lao động việc làm cho khu vực nông thôn.
  • Việc quản lý lao động việc làm ở những vùng thu hồi đất nông nghiệp cho phát triển khu công nghiệp, phục vụ quá trình CNH, HĐH đất nước có nhiều sai phạm, nhiều nơi bị buông lỏng, dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài, làm gia tăng tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp trong khu vực nông thôn.
  • Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn nhiều bất cập. Việc coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống vẫn tồn tại. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn cầm chừng, chưa có sự vào cuộc quyết liệt của lãnh đạo các cấp; công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nhiều nông dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc đào tạo nghề nên không quan tâm đến học nghề.
  • Quản lý nông thôn Việt Nam thiếu quy hoạch tổng thể và khoa học trong phát triển; nặng về khai thác tiềm năng tự nhiên, chưa biết khai thác và phát huy thế mạnh và chưa coi trọng phát triển công nghệ cao, sản xuất nông sản sạch theo đúng tiêu chuẩn. Việc tiếp tục sử dụng các công nghệ lạc hậu với tư duy cũ đã tác động mạnh đến số lượng và chất lượng việc làm: số lượng tăng mà chất lượng chưa được bảo đảm.
  • Quản lý phát triển xã hội ở nông thôn đôi khi chưa quan tâm đúng mức đến chủ thể chính là nông dân. Nhiều địa phương trong quá trình thu hút đầu tư, dự án… chưa chú ý đến hệ quả xã hội của dự án, dẫn đến tình trạng: 1) Các doanh nghiệp chỉ quan tâm tới tiến độ công trình, hiệu quả đầu tư mà chưa quan tâm đến những thoả ước đã ký kết với địa phương. Hậu quả là người nông dân sau khi bị mất đất đã không còn tư liệu sản xuất và cũng không còn kế sinh nhai. 2) Chính quyền địa phương nhiều nơi thường chú trọng thu hút đầu tư, dự án... để tạo việc làm cho người lao động nhưng thực tế lại ngược lại. Vì thế, thiếu việc làm, thất nghiệp ở nông thôn vẫn phổ biến.

2. Một số giải pháp cơ bản nhằm quản lý lao động việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay

Để thực hiện tốt quản lý lao động việc làm ở nông thôn một cách hiệu quả cần chú ý một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, về phía Nhà nước,đổi mới tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước trong ngành nông nghiệp. Tập trung thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước như đàm phán ngoại giao, xây dựng chiến lược, quy hoạch, chính sách, cung cấp các dịch vụ công căn bản, trong đó coi trọng Chiến lược lao động việc làm; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thị trường, đào tạo nghề cho lao động nông thôn để nâng cao trình độ chuyên môn, khả năng ứng dụng và làm chủ những công nghệ; tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh, tham gia vào các chuỗi giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế. Qua đó, nâng cao thu nhập, tạo việc làm bền vững.

Nhà nước thực hiện vai trò kiến tạo phát triển và phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của nông dân và doanh nghiệp. Qua đó, tạo việc làm, nâng cao chất lượng và bảo đảm việc làm bền vững cho lao động nông thôn theo hướng ưu tiên phát triển lợi thế sản xuất nông nghiệp và lợi thế về tài nguyên con người, trước hết tập trung vào các ngành kinh tế dịch vụ.

Hai là, để tạo ra nhiều việc làm với chất lượng cao và bền vững, Nhà nước và nhất là chính quyền địa phương phải chủ động chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào các vùng kinh tế trọng điểm, các ngành kinh tế động lực và các thành phần kinh tế chủ đạo sang mô hình tăng trưởng dựa vào lợi thế so sánh của các địa phương, mọi ngành, mọi thành phần kinh tế để họ chủ động phát triển sản xuất kinh doanh, tự tạo việc làm với giá trị cao.

Tăng cường năng lực quản lý của chính quyền các cấp về lĩnh vực lao động, việc làm. Nâng cao năng lực công tác quy hoạch và xây dựng kế hoạch cho cán bộ về việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động phù hợp với điều kiện của từng địa phương và kinh tế thị trường, nhất là cấp xã. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, minh bạch hóa quá trình quản lý, giảm các khâu trung gian trong việc thực hiện các chương trình, dự án việc làm, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động… Bảo đảm sự lãnh đạo và tăng cường sự quan tâm thường xuyên của cấp ủyĐảng ở địa phương và cơ sở; đưa chương trình việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động vào Nghị quyết của các cấp ủyĐảng và Hội đồng nhân dân các cấp, nhất là cấp huyện và cấp xã.

Ba là,đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là Hội Nông dân và Liên hiệp các hợp tác xã để các tổ chức này thực sự do nông dân bầu ra, đóng vai trò đại diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích chính đáng của nông dân. Phân cấp, trao quyền thêm các nhiệm vụ, các dịch vụ công, như: đào tạo, khuyến nông, tín dụng, bảo hiểm, các hoạt động kinh doanh cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ nông sản đầu ra cho các tổ chức của nông dân, hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác về kỹ thuật, vốn đất đai và cơ sở hạ tầng.

Bốn là,về phát triển cộng đồng nông thôn, thay đổi nếp sống của người dân cũng như đẩy mạnh phát huy dân chủ cơ sở. Mở ra nhiều cơ hội cho người dân nông thôn. Tổ chức lại nông dân và trao quyền cho nông dân trong suốt quá trình CNH. Qua đây, phát huy tính chủ động, sáng tạo của lao động nông thôn trong lao động sản xuất, kinh doanh và giải quyết việc làm.

Năm là, hoàn thiện chính sách, pháp luật về việc làm theo hướng bao phủ và điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc làm, thị trường lao động; hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tiền lương; cải cách thể chế thị trường lao động theo hướng an ninh và linh hoạt... Phát triển kinh tế - xã hội thúc đẩy tạo việc làm, bảo đảm việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa và tiền tệ, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương, phát triển nông nghiệp, nông thôn... hướng tới mục tiêu tăng trưởng và việc làm bền vững.

Sáu là, hỗ trợ kết nối cung - cầu lao động thông qua việc nâng cao năng lực của hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm, thành lập một hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm công thống nhất từ Trung ương tới địa phương, đồng thời, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động. Tạo cơ hội chuyển đổi việc làm, đặc biệt là phát triển kinh tế dịch vụ để có thể thu hút việc làm, lao động; hướng tới xuất khẩu lao động vì nhu cầu về lao động xuất khẩu hiện nay ở các nước rất lớn. Hỗ trợ và bảo đảm sự tham gia của tất cả các nhóm đối tượng vào thị trường lao động theo hướng tăng cường hiệu quả mở rộng phạm vi bao phủ của hệ thống bảo trợ xã hội, các chính sách thị trường lao động thụ động (như chính sách bảo hiểm thất nghiệp), cải cách hệ thống an sinh xã hội.

_____________________

(1), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9) Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra nông nghiệp nông thôn 2016, tr.71, 24, 28, 31, 32, 35, 39, 39.

(3), (10) Bộ Kế hoạch và đầu tư: Báo cáo điều tra lao động việc làm 2016, Tổng cục thống kê, Hà Nội, 2017, tr.23, 12.

(11) Thục Quyên: Vay vốn quỹ quốc gia về việc làm - Chính sách tín dụng góp phần thực hiện hiệu quả xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, Tạp chí Lao động và xã hội online, cập nhật ngày 31-5-2018.

(12) Nhuệ Mẫn: Tài chính nông nghiệp - nông thôn: Hướng đến sự bền vững tài chính cho người nghèo, Báo Đầu tư chứng khóan điện tử, cập nhật ngày 8-9-2018

 

 

PGS, TS Bùi Thị Ngọc Lan

TS Nguyễn Thị Thu Huyền

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền