Trang chủ    Diễn đàn    Ngoại giao văn hóa trong bối cảnh hội nhập
Thứ năm, 24 Tháng 3 2016 09:33
7118 Lượt xem

Ngoại giao văn hóa trong bối cảnh hội nhập

(LLCT) - Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu phát triển của đất nước và với những cam kết quốc tế, cần hoàn thiện hệ thống chính sách ngoại giao văn hóa đồng bộ trong tổng thể nền ngoại giao toàn diện Việt Nam. Chiến lược ngoại giao văn hóa cấp quốc gia của Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại giao trong thập kỷ tới để nâng tầm hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Việt Nam và củng cố mối quan hệ với những quốc gia khác, qua đó góp phần xây dựng lòng tin chiến lược giữa Việt Nam và quốc tế.

1. Ngoại giao văn hóa và lợi ích quốc gia

Trong lịch sử ngoại giao thế giới, ngoại giao văn hóa xuất hiện từ rất sớm với các hình thức biểu hiện khác nhau ở từng quốc gia và giữa văn hóa và ngoại giao có mối liên hệ chặt chẽ. Nhiều học giả, nhất là nhiều nhà phân tích phương Tây cho rằng, chính sách đối ngoại cần thiết phải chính trị hóa văn hóa(1), còn ngoại giao văn hóa được xem như hoạt động chính trị phục vụ lợi ích quốc gia dưới sự che chở của văn hóa(2), và đồng thời văn hóa được xem như là một trong ba trụ cột (cùng với an ninh và kinh tế) của chính sách đối ngoại của nhà nước(3). Truyền thống lịch sử và văn hóa của một dân tộc là chỗ dựa và thế mạnh của ngoại giao. Hoạt động ngoại giao ở một khía cạnh nào đó là sự cọ xát và giao lưu các giá trị văn hóa và ý tưởng, nên ngoại giao chắc chắn cũng được xem là diễn đàn hoạt động văn hóa phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc.

Tuy nhiên, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, văn hóa càng trở nên quan trọng trong ý nghĩa là sức mạnh mềm trong sức mạnh tổng hợp quốc gia. Văn hóa có khả năng thâm nhập mạnh mẽ, có thể đạt được mục tiêu mà các biện pháp chính trị và quân sự chưa chắc có thể đạt được. Chính vì vậy, các quốc gia ngày càng chú ý nhiều đến các chủ đề văn hóa như đa dạng văn hóa, đối thoại giữa các nền văn hóa -văn minh, văn hóa hòa bình. Kênh văn hóa được sử dụng như một phương tiện hiệu quả hỗ trợ thúc đẩy quan hệ chính trị, an ninh, kinh tế... Ở phạm vi toàn cầu, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên Hợp quốc (UNESCO) là một trường hợp điển hình của việc tuyên truyền ngoại giao văn hóa với vai trò trung tâm điều phối các hoạt động ngoại giao văn hóa tập thể, bao gồm 193 quốc gia thành viên, trụ sở chính đặt tại Paris (Pháp), với hơn 50 văn phòng và một số viện hay trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới. Ở phạm vi khu vực, khu vực ASEAN với mục tiêu xây dựng cộng đồng văn hóa - xã hội bên cạnh cộng đồng an ninh và cộng đồng kinh tế cũng là một trong số đó. Như vậy, văn hóa không chỉ đơn thuần phục vụ lợi ích chính trị như quan điểm các học giả truyền thống đã thừa nhận, mà gắn liền với lợi ích quốc gia toàn diện. Thực tế hội nhập quốc tế với quy mô toàn cầu hóa hiện nay cho thấy ngoại giao văn hóa được coi là một dẫn chứng tiêu biểu về quyền lực mềm, khả năng thuyết phục thông qua văn hóa, giá trị và ý tưởng; một điều đối lập với quyền lực cứng, sự chinh phục hoặc cưỡng ép thông qua sức mạnh quân sự(4). Với tư cách là một lĩnh vực đặc biệt của hoạt động ngoại giao, ngoại giao văn hóa liên quan đến việc sử dụng văn hóa như là đối tượng và phương tiện nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước, quảng bá văn hóa và ngôn ngữ quốc gia trên thế giới.

Ngoại giao văn hóa được thực hiện thông qua tương tác đa diện giữa nhiều chủ thể khác nhau, bao gồm các cơ quan chính phủ, liên chính phủ và phi chính phủ. Thông thường, nhà nước sẽ đặt ra những ranh giới rộng về chính sách văn hóa, thương lượng những thỏa thuận văn hóa với các nước khác và tạo ra tổ chức khung để tham dự các sự kiện cũng như dự án quốc tế có liên quan tới văn hóa.

Ngoại giao văn hóa Việt Nam cómục tiêu là: (1) góp phần đảm bảo an ninh quốc gia; (2) phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; (3) nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế; (4) góp phần phát triển văn hóa quốc gia.

Với đặc thù và thế mạnh của mình, ngoại giao văn hóa tạo ra các “kênh hoạt động” đặc thù để đi tới các mục tiêu trên. Về khía cạnh an ninh, trên cơ sở tăng cường sự hiểu biết, thiện chí, ngoại giao văn hóa tạo môi trường thân thiện, thuận lợi... cho hoạt động ngoại giao, đảm bảo cho mối quan hệ tốt đẹp. Ngoại giao văn hóa đi vào lòng người, tao sự cảm thông, nâng cao sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau nhằm tạo dựng một môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển. Khi quan hệ chính trị và kinh tế gặp trở ngại, ngoại giao văn hóa góp phần tháo gỡ những rào cản đó, thu hút thiện cảm và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, chống lại những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ an ninh quốc gia. Về kinh tế - xã hội, ngoại giao văn hóa là một cách tiếp thị hình ảnh quốc gia, bộ mặt nền kinh tế, kèm theo đó là tiếp thị các sản phẩm của nền kinh tế, dịch vụ kinh tế, văn hóa.

Đối với mục tiêu cụ thể, ngoại giao văn hóa góp phần nâng cao sự hiểu biết đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về đất nước, con người và nền văn hóa Việt Nam. Đồng thời, các hoạt động ngoại giao văn hóa chính là kênh tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa truyền thống của đất nước. Giao lưu văn hóa sẽ tạo nên hình ảnh tốt hơn về đất nước, con người và nền văn hóa quốc gia. Nói cách khác là ngoại giao văn hóa sẽ góp phần kiến tạo lòng tin để xây dựng quan hệ hữu nghị bền vững giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Như vậy, ngoại giao văn hóa của Việt Nam giữ vị trí “là nền tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại”(5), được thực hiện bằng việc áp dụng các nội dung, hình thức văn hóa: nghệ thuật, lịch sử, tư tưởng, truyền thống văn hóa, thông tin... nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước, quảng bá văn hóa và ngôn ngữ quốc gia để tạo ra uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam với thế giới trong thời đại toàn cầu hóa. Việc triển khai chính sách ngoại giao văn hóa đang trở thành một trong ba chính sách ngoại giao chủ yếu, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, như Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa”(6)

2. Một số thành tựu của ngoại giao văn hóa Việt Nam

Trong những năm gần đây, ngoại giao văn hóa Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng, đóng góp vào thành công chung của ngoại giao.

Ngoại giao văn hóa đã góp phần quảng bá văn hóa và tăng cường hiểu biết giữa Việt Nam và bạn bè quốc tế, tạo lòng tin cho việc xây dựng mối quan hệ hữu nghị lâu dài. Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc đổi mới, môi trường chính trị ổn định, đất nước hòa bình, con người thân thiện, nhiều danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc... là những hình ảnh thường xuyên được thông tin, tuyên truyền, quảng bá đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt động quảng bá về ASEAN, không chỉ góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nước thành viên, mà còn mang hình ảnh Việt Nam và ASEAN ra thế giới. Trên cương vị thành viên Hội đồng chấp hành UNESCO (2009 - 2013), Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc ký kết Hiệp định hợp tác khung giữa ASEAN và UNESCO (là văn bản ký kết chính thức đầu tiên giữa hai tổ chức này). Năm 2013, Việt Nam là 1 trong 22 nước ứng cử và được bầu vào Ủy ban Liên chính phủ Công ước 1972 nhiệm kỳ 2013 - 2017. Những sự kiện văn hóa thường gắn liền với các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao. Ngoài ra, Tuần văn hóa Việt Nam, Ngày văn hóa Việt Namvà trại hè Việt Nam được tổ chức ở nhiều nước, trong đó có Đức, Nga, Pháp, Nhật... trở thành hoạt động ngoại giao văn hóa quan trọng của Việt Nam.

Hoạt động ngoại giao văn hóa đã góp phần tích cực vận động các danh hiệu văn hóa thế giới như Hoàng thành Thăng Long là Di sản văn hóa thế giới, Ca trù, Quan họ, Đờn ca tài tử là Di sản văn hóa phi vật thể...; tổ chức các chương trình văn hóa như các lễ hội văn hóa, du lịch, ẩm thực, các cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế. Trong khuôn khổ các hoạt động văn hóa nghệ thuật kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO đã trao giấy chứng nhận Hoàng thành Thăng Long là Di sản văn hóa thế giới, góp phần giới thiệu hình ảnh một Thủ đô giàu truyền thống văn hóa ra thế giới.  Cũng trong năm 2010, cao nguyên đá Đồng Văn tại tỉnh Hà Giang đã được UNESCO công nhận là thành viên mạng lưới vườn quốc gia toàn cầu GNN. Như vậy, cho đến năm 2014 ở Việt Nam đã có 19 di sản thế giới, trong đó 2 di sản thiên nhiên, 5 di sản văn hóa, 8 di sản văn hóa phi vật thể, 3 di sản tư liệu và 1 di sản địa chất toàn cầu. Đây không chỉ là niềm tự hào của người Việt Nam mà còn là cơ hội để cộng đồng quốc tế chia sẻ và thưởng thức các giá trị văn hóa - tinh thần Việt Nam.

Thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa, các giá trị, tinh hoa văn hóa và tri thức của các nước trên thế giới cũng được tiếp thu có chọn lọc, góp phần làm phong phú nền văn hóa của Việt Nam và nâng cao chất lượng đời sống tinh thần nhân dân, đồng thời chuyển tải nhiều ý tưởng và chương trình lớn của Liên Hợp quốc và UNESCO vào nhiều chương trình hành động quốc gia như xây dựng “xã hội học tập”, “xã hội thông tin”, “giáo dục cho mọi người”...

Bên cạnh những kết quả đạt được và so với một số nước trong khu vực, hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam cũng còn những hạn chế, yếu kém, chưa được đầu tư tương xứng với tiềm năng và lợi thế của một quốc gia dân tộc có bề dày lịch sử, văn hóa. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng nhiều nơi trên thế giới chỉ biết đến Việt Nam là một đất nước Anh hùng trong chiến đấu, vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu; mà chưa thực sự biết đến vị thế mới của một quốc gia đang đổi mới từng ngày, có ý thức vươn lên mạnh mẽ và là một điểm đến thân thiện, an toàn với nhiều chính sách cởi mở, thông thoáng đối với các nhà đầu tư. Trong khi đó, hành lang pháp lý về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, những quy định trong hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa vẫn chưa được hoàn thiện, biểu hiện trên thực tế là sự xuống cấp của một số công trình văn hóa hoặc việc tiếp thu tràn lan văn hóa ngoại lai. Công tác quảng bá, tuyên truyền hình ảnh đất nước chưa được triển khai thường xuyên, mạnh mẽ, sâu rộng và tiềm lực xuất khẩu văn hóa Việt ra nước ngoài còn hạn chế. Do vậy, mức độ ảnh hưởng của vị thế, sức mạnh quốc gia Việt Nam đến với các nước chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng.

Việt Nam sớm nhận thức được vai trò quan trọng của ngoại giao văn hóa và đã có nhiều hành động cụ thể để nâng cao hiệu quả hoạt động. Hiện nay, ngoại giao văn hóa đang được đưa vào kế hoạch giảng dạy tại nhiều trường đại học lớn. Những chương trình ngoại giao văn hóa sẽ tăng cường cơ hội hợp tác văn hóa toàn cầu và là nhịp cầu nối Việt Nam ra thế giới và ngược lại. Công tác ngoại giao văn hóa, quảng bá hình ảnh Việt Nam chỉ có thể thành công khi huy động được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, mọi nguồn lực của đất nước. Trong tương lai, tính chất các chương trình ngoại giao văn hóa sẽ thay đổi theo ảnh hưởng của truyền thông và nhất là internet, sự đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân.

Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu phát triển của đất nước và với những cam kết quốc tế, cần hoàn thiện hệ thống chính sách ngoại giao văn hóa đồng bộ trong tổng thể nền ngoại giao toàn diện Việt Nam. Chiến lược ngoại giao văn hóa cấp quốc gia của Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại giao trong thập kỷ tới để nâng tầm hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Việt Nam và củng cố mối quan hệ với những quốc gia khác, qua đó góp phần xây dựng lòng tin chiến lược giữa Việt Nam và quốc tế.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2015

(1) Mitchell,  J.M: International  Cultural  Relations, London:  Allen & Unwin, 1986.

(2) Taylor P.M.: Global Communications, International Affairs and the Media since 1945, London and New York, 2007, Routledge, p. 79.

(3) Morgenthau, H.J. (1978): Politics among Nations: The Struggle  for Power and Peace  (5th  ed.), New York, 1978,  Knopf. Pp. 64-67, 77-91.

(4) Nye J.,: The Paradox of American Power, Oxford: Oxford University Press, 2002, p. 8

(5) Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020.

(6) ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.139.

 

TS Phạm Ngọc Anh

Học viện An ninh nhân dân

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền