Trang chủ    Diễn đàn    Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Thứ hai, 09 Tháng 5 2016 17:31
4456 Lượt xem

Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

(LLCT) - Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước về môi trường nhằm duy trì trật tự kỷ cương pháp chế trong lĩnh vực này, góp phần bảo đảm phát triển bền vững đất nước.

Sau khi Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) năm 2012 ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định 179/2013/NĐ-CP ngày 14-11-2013 qui định về  XLVPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT). Nghị định này đã thực sự tạo hành lang pháp lý cần thiết cho việc xử lý hành vi vi phạm về BVMT.

Khắc phục những hạn chế của Nghị định 117/2009/NĐ-CP, những hành vi vi phạm trong lĩnh vực BVMT được qui định trong Nghị định 179 gồm 8 nhóm,  liệt kê tương đối đầy đủ, gồm có 41 hành vi vi phạm từ Điều 8 đến 49.

Tuy nhiên, những qui định hiện hành về xử lý XLVPHC trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, từ đó gây khó khăn trong việc áp dụng và ảnh hưởng đến hiệu quả của XLVPHC trong lĩnh vực BVMT.

1. Một số hạn chế của pháp luật về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT

Thứ nhất, qui định về hành vi VPHC trong lĩnh vực BVMTcòn nhiều bất cập

- Quy định về hành vi VPHC về BVMT còn có sự trùng lắp, mâu thuẫn, chồng chéo nội dung.

Cùng một tính chất hành vi nhưng lại được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, thậm chí việc mô tả hành vi có tính chất tương tự nhau ở các Nghị định về xử lý lại khác nhau dẫn đến lúng túng cho chủ thể có thẩm quyền xử phạt và ở mức độ nhất định sẽ tạo nên sự tuỳ tiện trong việc lựa chọn văn bản qui phạm pháp luật để áp dụng xử lý những trường hợp cụ thể. Ví dụ: Nghị định 179 quy định hành vi vi phạm các quy định về xả nước thải, trong khi Nghị định 142/2013/NĐ-CP qui định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản cũng có qui định về hành vi xả nước thải vào nguồn nước không có giấy phép (Điều 5 và điều 12); và khoản 2 điều 24 Nghị định 103/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính về nuôi trồng thuỷ sản cũng qui địnhvi phạm các quy định về hành vi xả, thải chất thải, nước thải bị ô nhiễm ra  môi trường tự nhiên. Hoặc ngay trong Nghị định 179cũng có những qui định chồng chéo, mâu thuẫn nhau.Ví dụ, tại khoản 9 Điều 21 quy định xử phạt đối với hành vi chôn lấp, đổ, thải chất thải nguy hại không đúng quy định về BVMT với mức phạt từ 50 triệu đồng đến 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, cũng hành vi thải chất thải nguy hại không đúng quy định, thì tại khoản 2 Điều 19 cũng có quy định xử phạt từ 5 triệu đến 10 triệu hành vi “xả, thải dầu mỡ, hóa chất độc hại, chất thải nguy hại... vào môi trường nước”.

Vậy, việc áp dụng sẽ như thế nào, khi nào thì áp dụng theo Khoản 9 Điều 21 và khi nào thì áp dụng theo Khoản 2 Điều 19, gây khó khăn và tạo sự tuỳ tiện cho người thực thi.

- Còn để lọt, thiếu quy định một số hành vi vi phạm

Mặc dù khách thể của VPHC là những quan hệ xã hội bị xâm hại nhưng những hành vi vi vi phạm trong các văn bản thường không nêu quan hệ xã hội bị xâm hại mà chủ yếu mô tả thông qua qui định của pháp luật mà hành vi đó xâm hại. Do vậy, việc đánh giá mức độ đầy đủ của các hành vi vi phạm về môi trường thường được đối chiếu giữa số lượng các hành vi vi phạm đã được qui định với hệ thống qui phạm pháp luật của lĩnh vực đó. Theo phương pháp đó, chúng tôi nhận thấy, Nghị định 179 còn thiếu một số qui định sau:

Hành vi vi phạm tronghoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng. Tại Điều 5 Nghị định 114/2014/NĐ-CP về nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng qui định nhiệm vụ BVMT trong nhập khẩu, phá dỡ tàu biển nhưng những hành vi vi phạm điều này chưa được Nghị định 179 điều chỉnh. Hơn nữa, loại hành vi xâm phạm vào qui định này diễn ra khá phổ biến trong hoạt động nhập khẩu hiện nay. Do chưa có biện pháp xử lý hành chính nên đây vẫn là lỗ hổng dẫn đến chưa bảo đảm được nguyên tắc công bằng trong thực hiện pháp chế về BVMT hiện nay.

Các hành vi liên quan đến quản lý chất thải và phế liệu, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch BVMT, phương án cải tạo và phục hồi môi trường và một số hành vi khác trong Luật BVMT 2014 đã có nhiều thay đổi nhưng Nghị định chưa điều chỉnh kịp thời.

Hành vi vi phạm còn rộng, chưa có tính răn đe đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm có mức độ nghiêm trọng, khối lượng xả thải lớn và chưa hợp lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm ở mức độ ít nghiêm trọng.

- Một số qui định còn mang tính định tính và chưa được lượng hoánhư theo Khoản 1, Điều 15 qui định về xử phạt đối với hành vi “thải mùi hôi thối vào môi trường”, tuy nhiên chưa có căn cứ qui định như thế nào là mùi hôi thối nên khó khăn cho thực thi trên thực tiễn. Các hành vi để lẫn chất thải nguy hại chưa được lượng hóa con số cụ thể nên không công bằng trong xử lý giữa để lẫn số lượng nhiều.

Thứ hai, qui định về thẩm quyền XLVPHC chưa đầy đủ, việc phân định thẩm quyền xử lý chưa hợp lý

Trên cơ sở Luật XLVPHC, thẩm quyền XLVPHC trong lĩnh vực BVMT được qui định từ điều 50 -53, bao gồm: Chủ tịch UBND các cấp, công an, thanh tra chuyên ngành. Ngoài những người có thẩm quyền xử phạt trên, còn có các lực lượng khác có thẩm quyền xử phạt theo qui định của Luật XLVPHC nếu phát hiện ra hành vi VPHC quy định trong Nghị định này mà thuộc lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình thì có quyền xử phạt.Qua nghiên cứu cho thấy, quy định này vẫn bộc lộ một số hạn chế sau:

 - Số lượng chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Trong Nghị định 179 qui định thẩm quyền xử lý của những chức danh trực tiếp thi hành công vụ (như chiến sĩcông an,thanh tra viên chuyên ngành BVMT,..) còn ít, mà phần lớn là các chức danh lãnh đạo. Trong khi những người trực tiếp thi hành công vụ là những người nắm bắt, kiểm soát và phát hiện VPHC trực tiếp và thường xuyên nhất.

- Việc qui định theo kiểu liệt kê các chức có thẩm quyền xử phạt đã đạt được mục đích xác định chủ thể có thẩm quyền một cách rõ ràng nhưngviệc liệt kê dẫn đến không linh hoạt, không đầy đủ trong huy động các nguồn lực tham gia đấu tranh, phòng chống VPHC trong lĩnh vực BVMT. Chẳng hạn như: ngoài chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, chiến sĩ công an nhân dân, thanh tra chuyên ngành… thì còn quy định bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, hải quan, kiểm lâm, quản lý thị trường, thuế, cảng vụ hàng hải, cảng vụ đường thủy nội có thẩm quyền xử phạt nhưng không quy định thẩm quyền của một số chức danh khác như Cục trưởng cục kiểm soát hoạt động BVMT hay Chi cục BVMT, chi cục an toàn thực phẩm,… đã  làm giảm đáng kể việc huy động các nguồn lực của một số cơ quan thực thi pháp luật.

- Phân định thẩm quyền xử phạt chưa hợp lý

Điều 54 qui định: Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường có thẩm quyền xử phạt VPHC theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý của mình quy định tại Nghị định này, trừ các hành vi vi phạm về thủ tục hành chính và hoạt động quản lý nhà nước thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về BVMT được quy định tại Nghị định này (các Điều 8, 9, 10, 11 và 12; các Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 21; các Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 22; các Khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 23; Khoản 1 và Khoản 2 Điều 24; các Điều 26, 27, 28, 34, 37, 38 và 40) đã bộc lộ những bất cập. Bởi, không giao thẩm quyền cho cảnh sát môi trường được xử phạt hành chính nêu trên không chỉ thuần tuý là những hành vi vi phạm về thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước, mà trong một hành vi đã bao gồm cả hành vi gây ô nhiễm hoặc đi liền với hành vi vi phạm về BVMT khác. Việc khoanh vùng thẩm quyền XLVPHC, không giao thẩm quyền kiểm tra, xử lý các vi phạm về thủ tục hành chính và hoạt động quản lý nhà nước đã gây khó khăn, cản trở rất lớn đến hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với vi phạm pháp luật nói chung và  VPHC về BVMT nói riêng của lực lượng Cảnh sát môi trường.

- Quy định mâu thuẫn ngay trong điều luật và với các luật chuyên ngành khác. Tại điểm m, Khoản 1, Điều 54 qui định về thẩm quyền của công an cấp hHuyện, theo đó: Công an cấp huyện có thẩm quyền xử phạt VPHC theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý của mình đối với các hành vi VPHC trong lĩnh vực BVMT, được quy định tại các Điều 20, 30, 31, 41, 42, 43, 45, 48 và 49 của Nghị định này. Tuy nhiên, tại điểm o, Khoản 1 Điều 54 lại qui định: Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường có thẩm quyền xử phạt VPHC theo thẩm quyền, thuộc lĩnh vực và phạm vi quản lý của mình quy định tại Nghị định này.

Như vậy, theo Nghị định 179thì đội cảnh sát môi trường ở công an huyện không được xử phạt theo thẩm quyền của lực lượng cảnh sát môi trường đối với các điều khoản qui định tại điểm o, khoảng 1, Điều 54. Đây là vấn đề mâu thuẫn giữa các điểm trong trong cùng một  điều, khoản của Nghị định.

Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 54 qui định: Người có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT tại điều, khoản nào của Nghị định này thì chỉ được thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, điều tra, kiểm tra, thanh tra về BVMT trong phạm vi các điều, khoản đó; trường hợp phát hiện cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm không thuộc thẩm quyền xử phạt của mình thì phải thông báo và phối hợp ngay với cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT đối với hành vi đó để kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Qui định này chưa phù hợp với các văn bản pháp luật khác như: Luật xử lý VPHC, Luật Công an nhân dân, Pháp lệnh Cảnh sát môi trường năm 2014, Quyết định số 151/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế áp dụng biện pháp công tác nghiệp vụ trong phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân, vì lực lượng Cảnh sát môi trường thực hiện các biện pháp nghiệp vụ không chỉ để xử lý vi phạm mà còn để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và vi phạm pháp luật về BVMT, mà muốn làm tốt điều đó thì buộc phải thực hiện các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an. Do đó, qui định tại khoản 2 Điều 54 nêu trên chỉ cho phép Cảnh sát môi trường thực hiện biện pháp nghiệp vụ trong phạm vi các điều khoản qui định tại điểm o khoản 1 Điều 54 là không phù hợp với qui định của các Luật liên quan đến chức năng của lực lượng Cảnh sát môi trường.

Thứ ba, biện pháp xử lý VPHC còn nhiều bất cập dẫn đến việc áp dụng thực tế chưa bảo đảm tính công bằng trong xử lý đối tượng VPHC

- Đối với hình thức xử phạt. Tại Nghị định 179 mức phạt cảnh cáo chưa được đặt ra đối với những lỗi vi phạm các thủ tục hành chính hoặc những lỗi hành vi không dẫn tới ô nhiễm, tai biến hay suy thoái chất lượng các thành phần môi trường là chưa phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm của các hành vi này, mức phạt cần phải mang tính định biến, từ thấp đến cao mới bảo đảm công bằng trong xử phạt đối với những loại hành vi này.

Về hình thức phạt tiền: Cáchình thức xử phạt và mức phạt còn qui định chung cho các hành vi mà không xem xét đến quy mô, mức độ vi phạm của từng doanh nghiệp; chưa đảm bảo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, chưa đảm bảo công bằng trong xử phạt. Ví dụ: Không có sự phân định mức xử phạt theo qui mô sản xuất nên đối với những cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, đặc biệt là hộ sản xuất kinh doanh thì họ không có điều kiện nộp phạt, dễ dẫn đến chây ỳ không chấp hành quyết định xử phạt hoặc phá sản.

Việc quy định mức xử phạt đối với hành vi “Để lẫn chất thải nguy hại khác loại với nhau hoặc để lẫn chất thải nguy hại với chất thải khác” quy định tại Khoản 6, Điều 21 là quy định chung cho các doanh nghiệp có hành vi vi phạm mà không theo mức độ vi phạm. Vì vậy, đối với một số doanh nghiệp số lượng chất thải nguy hại phát sinh không nhiều, chỉ tương đương với một hộ gia đình cá nhân thì mức phạt cũng tương đương với các doanh nghiệp có số lượng chất thải nguy hại phát sinh nhiều gấp nhiều lần là không công bằng cho các Doanh nghiệp này. Điều này sẽ gây phản ứng cho các Doanh nghiệp, gây khó khăn cho việc xử lý vi phạm của cơ quan có thẩm quyền.

- Về biện pháp khắc phục hậu quả. Tại điểm n, Khoản 3, Điều 4 Nghị định  179 qui định biện pháp truy thu số phí BVMT nộp thiếu, trốn nộp theo quy định; buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hànhlà biện pháp khắc phục hậu quả.Theo chúng tôi, Luật xử lý VPHC không qui định biện pháp này là biện pháp khắc phục hậu quả . Xét dưới góc độ lý luận thì biện pháp trên không phải biện pháp khắc phục hậu quả vì bản chất của biện pháp khắc phục hậu quả là biện pháp nhằm làm giảm bớt thiệt hại do VPHC gây ra. Việc buộc trả kinh phí trưng cầu giám định thể hiện sự cưỡng chế của nhà nước đối nhằm bảo đảm thi hành các biện pháp xử lý VPHC chứ không phải thiệt hại do VPHC gây ra. Như vậy, biện pháp này là một biện pháp độc lập trong cưỡng chế thi hành các quyết định xử lý VPHC.

Về qui định mức và khung tiền phạt: điều quan trọng trong phạt tiền là phân định rõ khung tiền phạt. Luật Xử lý VPHC chỉ qui định mức phạt tiền tối đa trên các lĩnh vực, còn ở Nghị định 179 mặc dù có liệt kê ra các hành vi vi phạm và mức phạt nhưng mức phạt từ tối thiểu đến tối đa là khá xa (ví dụ, điểm c, khoản 9, điều 35 qui định “Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng trong trường hợp khối lượng dầu từ 10 tấn đến dưới 20 tấnđối với Vi phạm các quy định về hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu”. Qui định như vậy sẽ rất dễ gây sự tuỳ tiện trong việc quyết định mức phạt.

 Đồng thời, việc qui định hình thức phạt tiền tối thiểu và tối đa cho từng loại vi phạm là rất cứng nhắc, không hợp lý, nhất là khi tình hình kinh tế của đất nước thay đổi hàng ngày, làm cho văn bản không có tính dự báo cao. Nhiều khi mọi qui định xử phạt VPHC vẫn hợp lý nhưng mức phạt tiền này đã trở thành thấp, làm cho pháp luật lạc hậu hơn so với thực tế cuộc sống.

2.Một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện

Để góp phần nâng cao hiệu quả XLVPHC trong lĩnh vực BVMT thì điều quan trọng là phải có hệ thống pháp luật về xử lý VPHC hoàn chỉnh, đầy đủ, đồng bộ. Trên cơ sở tìm hiểu pháp luật hiện hành về XLVPHC trong lĩnh vực BVMT (Luật Xử lý VPHC năm 2012 và Nghị định số 179/2013/NĐ-CP), tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực BVMT:

Một là, hoàn thiện qui định về biện pháp xử lý

Cần có nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở thực hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền và công bằng trong xử lý”, để làm cơ sở phân định mức xử phạt đối với qui mô sản xuất của từng đối tượng vi phạm. Nghiên cứu sự tác động của tình hình kinh tế đất nước, các yếu tố thị trường, mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích trong việc VPHC về BVMT và lợi ích kinh tế thu được để xây dựng cơ sở qui định mức phạt tiền, nhằm bảo đảm sự ổn định của các văn bản về xử phạt và không lạc hậu so với thực tế.

Muốn vậy, cần xác định lại tính chất và cách áp dụng của các hình thức xử phạt. Đối với việc xác định đây có phải là vi phạm lần đầu hay không để áp dụng hình phạt cảnh cáo thì cơ quan chức năng có thẩm quyền phải thiết lập cơ sở dữ liệu một cách công khai, minh bạch về những trường hợp VPHC, căn cứ vào đó, người có thẩm quyền có thể xử phạt khách quan, chính xác.

Về khung phạt tiền không nên qui định khung quá rộng và cách xa nhau. Để phù hợp điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay, tránh sự lạc hậu của qui định pháp luật, mức phạt tiền không nên qui định theo số tiền cụ thể mà nên theo một con số trên tỷ lệ nhất định so với mức lương tối thiểu nhằm bảo đảm quy phạm có giá trị lâu dài, không phải sửa đổi nhiều do sự thay đổi của tình hình kinh tế.

Bãi bỏ Khoản 1, Điều 15: "Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 1.000.000 đồng đối với hành vi thải mùi hôi thối gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người ra môi trường". Việc thải mùi hôi thối áp dụng quá chung chung, đề nghị bãi bỏ, bởi việc nhận biết mùi bằng cảm quan rất khó cho áp dụng, mỗi người ngửi mùi khác nhau, mỗi ngành nghề có mùi đặc trưng. Hơn nữa, các thông số gây mùi như NH3, H2S,… nếu so sánh vượt quy chuẩn hiện hành sẽ xử phạt.

 Bãi bỏ biện pháp buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong hệ thống các biện pháp khắc phục hậu quả, bổ sung biện pháp này vào  biện pháp cưỡng chế  thi hành quyết định xử lý VPHC.

Hai là, hoàn thiện các quy định pháp luật về xác định thẩm quyền xử lý

Pháp luật về xử lý VPHC cần xác định thứ tự ưu tiên các nguyên tắc. Theo đó, người thụ lý vụ việc đầu tiên có quyền áp dụng các biện pháp xử lý là nguyên tắc ưu tiên trước để đảm bảo mọi hành vi VPHC đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.

Trước hết, cần nâng mức xử phạt tiền cho các chủ thể trực tiếp thi hành công vụ. Đồng thời, cần tăng thẩm quyền cho lực lượng Cảnh sát môi trường theo hướng sửa đổi lại điểm o khoản 1 Điều 54 theo hướng tăng thêm thẩm quyền cho lực lượng Cảnh sát môi trường vì qua hơn 8 năm hoạt động, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường đã phát hiện và xử lý hơn 40.000 vụ vi phạm pháp luật về BVMT, chuyển các cơ quan có thẩm quyền khởi tố, điều tra trên 940 vụ và hơn 1.440 đối tượng, xử phạt vi phạm gần 400 tỷ đồng, trong đó có nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận và bất bình trong nhân dân nên việc hạn chế thẩm quyền xử phạt VPHC của lực lượng Cảnh sát Môi trường có nguy cơ bỏ lọt tội phạm.

Bổ sung thêm thẩm quyền xử lý cho một số chủ thể như Cảnh sát môi trường cấp huyện, Cục trưởng Cục Kiểm soát hoạt động BVMT, cơ quanchi cục BVMT, chi cục an toàn thực phẩmđể bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống trong xử lý VPHC.

Bãi bỏ Khoản 2, Điều 54 khi quy định khi lực lượng công an tiến hành hoạt động nghiệp vụ điều tra đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực BVMT, đặc biệt là vi phạm hoạt động xử lý chất thải nguy hại (đang diễn ra rất phức tạp, nghiêm trọng) phải thông báo và phối hợp ngay với cơ quan quản lý nhà nước – như vậy đã hành chính hoá hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an nhân dân, không bảo đảm yêu cầu nghiệp vụ và nguyên tắc bí mật trong phòng, chống tội phạm liên quan đến các điều 21, 22, 23, 24, 26, 27 và 34 của Nghị định 179. Cần bãi bỏ qui định này để bảo đảm tính phù hợp với các văn bản chuyên ngành khác.

Ba là, cần bổ sung thêm quy định về các hành vi vi phạmnhư bổ sung qui định điều chỉnh đối với hành vi vi phạm về BVMT trong hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng; các hành vi liên quan đến quản lý chất thải và phế liệu, đánh giá tác động môi trường; xử phạt đối với vi phạm về thải bụi, khí thải có chứa các thông số môi trường không nguy hại vào môi trường trong trường hợp không xác định được lưu lượng thải. Do, hiện nay đối với các loại hình sản xuất, kinh doanh như xay xát, lau bóng gạo, sấy lúa; các loại hình hoạt động gây mùi, bụi phát tán ra môi trường xung quanh, không xác định được lưu lượng thải nên không thể áp dụng xử phạt được nên cần bổ sung thêm quy định này.

Việc hoàn thiện pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 41 – NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị về về BVMT trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nên Nghị định cần được sửa đổi, hoàn thiện theo hướng đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống VPHC trong lĩnh vực BVMT, đồng thời bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, xử lý nghiêm minh, triệt để, kịp thời, đúng pháp luật đối với các VPHC trong lĩnh vực BVMT nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.

                               ThS Lê Thị Hằng

                           Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Thừa Thiên Huế

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền