Trang chủ    Diễn đàn    Bảo đảm quyền của phụ nữ nông thôn trong chiến lược xây dựng nông thôn mới
Thứ ba, 31 Tháng 5 2016 09:58
3500 Lượt xem

Bảo đảm quyền của phụ nữ nông thôn trong chiến lược xây dựng nông thôn mới

(LLCT) - Ðể xây dựng được nông thôn mới thì cần có nhiều gia đình nông thôn mới, giàu mạnh, tiến bộ. Trong mỗi gia đình, phụ nữ chính là người cùng chồng quản lý các nguồn lực, quyết định các đầu tư, chi tiêu lớn trong sản xuất, kinh doanh, xây dựng nhà cửa và mua sắm các tiện nghi sinh hoạt. Họ là chủ thể quan trọng và là nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.

Gần 80% dân số Việt Nam sống ở nông thôn. Phụ nữ nông thôn sinh sống và lao động ở các vùng miền có điều kiện khác nhau; đồng thời có sự phong phú, đa dạng trong dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp... Hiện nay, lao động nữ nông thôn chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, sản xuất ra hơn 60% sản phẩm nông nghiệp. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế gia đình và thu nhập của các hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam. Trong xu hướng nam giới ngày càng chuyển sang các công việc phi nông nghiệp và di cư ra thành thị tìm việc làm thì phụ nữ đang giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò quyết định trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, cộng đồng, tham gia trực tiếp, tích cực vào xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần và quản lý cộng đồng.

Ðể xây dựng được nông thôn mới thì cần có nhiều gia đình nông thôn mới, giàu mạnh, tiến bộ. Trong mỗi gia đình, phụ nữ chính là người cùng chồng quản lý các nguồn lực, quyết định các đầu tư, chi tiêu lớn trong sản xuất, kinh doanh, xây dựng nhà cửa và mua sắm các tiện nghi sinh hoạt. Họ là chủ thể quan trọng và là nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định phụ nữ nông thôn là lực lượng quan trọng trong thực hiện chiến lược xây dựng nông thôn mới và đã chỉ đạo triển khai thực hiện Chiến lược xây dựng nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Kết luận số 97-KL/TW ngày 9-5-2014 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đặc biệt, Kết luận số 97 nêu rõ trách nhiệm của “Mỗi đoàn thể chính trị - xã hội đăng ký thực hiện nội dung cụ thể trong chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”(1) trong đó có tổ chức của phụ nữ là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Việc bảo đảm quyền của phụ nữ nông thôn không chỉ là nghĩa vụ của Đảng và Nhà nước mà còn là một trong những giải pháp hữu hiệu góp phần thực hiện thành công chiến lược xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, bảo đảm quyền của phụ nữ nông thôn Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế của Nhà nước Việt Nam với tư cách là thành viên của hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người trong đó có Công ước của Liên Hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Convention on the Elimination of all forms of Discrimination against Women - CEDAW) năm 1979. Trong đó, Điều 14 quy định rõ trách nhiệm của quốc gia thành viên CEDAW trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ.

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và đạt được nhiều thành tựu trong thực hiện nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước CEDAW về tôn trọng và bảo đảm quyền của phụ nữ nông thôn(2).

Về quyền tham gia quản lý xã hội: Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế nông thôn phát triển mạnh đã tạo tiền để vật chất để phụ nữ nông thôn có nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận việc làm, nâng cao nhận thức các vấn đề về giới, gia đình, xã hội và tham gia xây dựng, thực hiện kế hoạch phát triển xã hội.

Về quyền được chăm sóc sức khỏe và thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội: Với chính sách tăng cường đầu tư cho y tế cơ sở và chính sách bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân, việc chăm sóc sức khỏe và thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội của phụ nữ nông thôn được cải thiện; khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của người dân nông thôn nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng ngày càng được nâng cao. Đến nay 100% số xã, phường đã có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã có bác sỹ; 83% số hộ nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh; 96,1% số hộ được sử dụng điện lưới; 86,9% số hộ sử dụng máy thu hình; trên 97% số xã đã có đường ô tô đi tới trung tâm xã; khoảng 90% số xã có trạm bưu điện văn hoá(3).

Về quyền lao động việc làm, đào tạo nghề: Các hoạt động khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm được tổ chức rộng khắp trên cả nước nhằm phổ biến kiến thức chuyển giao ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm - thuỷ sản; đặc biệt các lớp tập huấn khuyến nông ngay tại ruộng, phổ biến qua các mô hình sản xuất đã tạo thuận lợi cho chị em phụ nữ nông thôn trong việc tham gia học tập, nâng cao kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt.

Về quyền được tiếp cận bảo hiểm xã hội: Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách bảo hiểm xã hội tập trung vào các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất là người khuyết tật, trẻ em, người già và phụ nữ.

Về quyền được bình đẳng trong cơ hội tiếp cận tín dụng: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã phối hợp với Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam thực hiện chính sách cho vay vốn đối với phụ nữ nghèo, nông dân vùng sâu, vùng xa để phát triển sản xuất - kinh doanh, góp phần nâng cao đời sống.

Về quyền sử dụng đất của phụ nữ nông thôn: Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 quy định rõ đất đai là tài sản chung của vợ và chồng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi rõ cả tên vợ và chồng.

Về quyền được sống trong môi trường an toàn, thuận lợi và trong lành: Chính phủ Việt Nam đã triển khai Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006-2010, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, coi đó là một trong những biện pháp quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và xóa đói giảm nghèo cho người dân nói chung trong đó có phụ nữ nông thôn.

Thứ hai, bảo đảm quyền phụ nữ nông thôn, tạo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Với vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã phát động phong trào “Xây dựng Gia đình 5 không 3 sạch”(4) với các tiêu chí phù hợp với mục tiêu của Chương trình xây dựng nông thôn mới, làm nòng cốt thực hiện có hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới trên toàn quốc. Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI (nhiệm kỳ 2012 - 2017) xác định tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” là nội dung quan trọng, xuyên suốt của cả nhiệm kỳ nhằm góp phần vận động, hướng dẫn phụ nữ thực hiện xây dựng nông thôn mới. Các tiêu chí đó phù hợp với đa số các tiêu chí của xây dựng nông thôn mới và đều hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình và cộng đồng. Vai trò của phụ nữ nông thôn được thể hiện rõ nét khi chị em thực hiện tốt 8 tiêu chí của cuộc vận động, đồng thời góp phần thực hiện tốt 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

Mặt khác, khi phụ nữ nông thôn tham gia tích cực phong trào xây dựng nông thôn mới sẽ có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng các quyền lợi từ chương trình xây dựng nông thôn mới. Là lực lượng lao động quan trọng ở nông thôn hiện nay, phụ nữ sẽ được hưởng lợi từ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng cấp, kiên cố hóa; hệ thống chính quyền vững mạnh và phát triển sản xuất trong vùng được chú trọng đầu tư: Chợ được quy hoạch sẽ giúp người dân, đặc biệt là phụ nữ mua bán, trao đổi hàng hóa thuận tiện, bảo đảm vệ sinh. Hệ thống giáo dục đồng bộ và chất lượng tạo điều kiện cho học sinh được đến trường, giảm tỷ lệ mù chữ, nâng cao trình độ học vấn, giúp trẻ em gái có kiến thức và kỹ năng, tăng cơ hội có việc làm tốt và ổn định cho con em mình; Y tế phát triển sẽ cải thiện và nâng cao chất lượng sức khỏe cho phụ nữ và những người thân trong gia đình, giúp chăm sóc sức khỏe dự phòng ở ngay tại địa phương, nhờ đó giảm chi phí do phải đi chữa bệnh ở tuyến trên; Môi trường xanh - sạch - đẹp sẽ giúp người dân, trong đó có phụ nữ, được sử dụng nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh, giảm ô nhiễm môi trường; Các hoạt động văn hóa, tinh thần như các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại thôn, bản phát triển sẽ góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy các phong tục tập quán tốt đẹp của địa phương, những nét văn hóa truyền thống của dân tộc; Mô hình hợp tác xã phát triển sẽ giúp người dân trong đó có phụ nữ phối hợp tốt hơn trong sản xuất, nhờ đó nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, góp phần giảm nghèo bền vững và vươn lên làm giàu chính đáng của người dân và hộ gia đình; Hệ thống chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, trật tự an ninh xã hội được bảo đảm sẽ củng cố niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo sáng suốt, đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người dân trong đó có phụ nữ nông thôn luôn được quan tâm, tham gia các hoạt động chính trị - xã hội tại địa phương một cách công bằng, cùng nói, cùng bàn, cùng làm và kiểm tra, giám sát các chủ trương, các hoạt động có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân, phát huy dân chủ, công khai của người dân trong mọi việc để yên tâm phát triển sản xuất, kinh doanh và sinh sống.

Phụ nữ nông thôn vừa là chủ thể góp phần quan trọng vào thành công của Chương trình xây dựng nông thôn mới, vừa là người trực tiếp thụ hưởng những thành quả tốt đẹp do Chương trình mang lại. Tuy nhiên, hiện nay họ vẫn đang gặp nhiều rào cản (về nhận thức; về năng lực; về văn hóa, từ chính sách xã hội; từ nam giới, từ phía phụ nữ...) trong tiếp cận cơ hội cống hiến và hưởng thụ lợi ích, dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi và vẫn chưa được hưởng đầy đủ quyền bình đẳng như nam giới. Thực tế cho thấy, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý không đều, chưa bền vững, có xu hướng chậm và không ổn định; nhiều tỉnh, huyện, tỷ lệ nữ cấp ủy thấp: Nhiệm kỳ 2010-2015, tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy ở xã chỉ đạt 18,01%; tỷ lệ nữ trong Đảng ủy ở cấp xã chỉ 18%, trong đó chỉ có 7, 25% Bí thư Đảng ủy xã là nữ; Nhiệm kỳ 2011-2016, tỷ lệ nữ trong Hội đồng nhân dân cấp xã là 27,71%, trong đó  chỉ có 4,09% Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã là phụ nữ nắm giữ(5). Sự tham gia và quyền quyết định của phụ nữ nông thôn trong hệ thống chính trị cơ sở thấp hơn nam, tỷ lệ nắm giữ những vị trí chủ chốt thấp.

Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do nhận thức của xã hội và chính bản thân phụ nữ về vai trò của họ trong xây dựng nông thôn mới còn nhiều bất cập. Tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” không chỉ là định kiến của xã hội, gia đình, giới nam đối với giới nữ mà còn là định kiến, sự mặc cảm, tự ty của bản thân phụ nữ nông thôn về vị thế, năng lực của bản thân. Điều này dẫn đến tâm lý an phận, triệt tiêu ý thức phấn đấu của phụ nữ nông thôn Việt Nam. Mặt khác, cơ chế thị trường và sự phát triển xã hội đang làm tăng thêm gánh nặng trách nhiệm của người phụ nữ trong thiên chức người vợ, người mẹ. Quỹ thời gian của người phụ nữ bị phân tán vào công việc nội trợ, chăm sóc gia đình khiến họ ít có điều kiện để tiếp cận những cơ hội để phát triển bản thân, ít có điều kiện thụ hưởng các giá trị văn hóa tinh thần. Dù pháp luật không có sự phân biệt nam nữ, nhưng thực tế bất lợi lớn vẫn nghiêng về phụ nữ. Bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và là rào cản đối với sự phát triển của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn.

Để hạn chế những rào cản đối với phụ nữ nông thôn trong việc tiếp cận, hưởng thụ lợi ích và phát huy hơn nữa vai trò của họ trong việc xây dựng nông thôn mới, các cấp ủy Đảng, chính quyền cần tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền của phụ nữ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về quyền của phụ nữ nông thôn, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị trong bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ. Bảo đảm quyền và tạo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ nông thôn tham gia tích cực, hiệu quả vào chiến lược xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.

_______________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2015

(1) http://dangcongsan.vn, Kết luận số 97-KL/TW ngày 9-5-2014 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 12-6-2014.

(2) Điều 14 Công ước của Liên Hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ quy định: 1. Các nước tham gia Công ước phải quan tâm đến các vấn đề đặc biệt đặt ra đối với phụ nữ nông thôn và vai trò quan trọng của phụ nữ nông thôn trong đời sống kinh tế gia đình, kể cả công việc của họ trong những việc làm không được trả công và phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để bảo đảm thực hiện các điều khoản của Công ước này đối với phụ nữ nông thôn. 2. Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ nông thôn để đảm bảo cho phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng nam nữ, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển nông thôn, đặc biệt các nước tham gia Công ước phải bảo đảm cho phụ nữ nông thôn các quyền: a, Tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển ở tất cả các cấp; b, Được tiếp cận các phương tiện chăm sóc sức khoẻ thích hợp kể cả thông tin, tư vấn và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình; c, Được hưởng lợi trực tiếp từ các chương trình bảo hiểm xã hội; d, Được hưởng các loại hình giáo dục đào tạo, chính quy và không chính quy, kể cả các chương trình xoá mù chữ cũng như được hưởng mọi dịch vụ khuyến nông và dịch vụ cộng đồng để nâng cao trình độ năng lực của mình; e, Tổ chức các nhóm tương trợ và hợp tác xã để được tiếp cận bình đẳng tới các cơ hội kinh tế thông qua việc làm công ăn lương hoặc việc làm tự tạo; f, Tham gia mọi hoạt động của cộng đồng; g, Được tiếp cận các loại hình tín dụng và vốn vay dành cho nông nghiệp, các chương trình hỗ trợ thị trường, tiếp cận công nghệ phù hợp và được đối xử bình đẳng trong cải cách ruộng đất cũng như trong các dự án quy hoạch lại đất đai; h, Được hưởng các điều kiện sống đầy đủ, nhất là về vấn đề nhà ở, vệ sinh, điện nước, giao thông vận tải và thông tin liên lạc.

(3) Xem http://thongtinphapluatdansu.edu.vn.

http://gas.hoasen.edu.vn, Báo cáo tình hình thực hiện công ước CEDAW của Việt Nam (Lần thứ 7+8).

(4) Các tiêu chí xây dựng Gia đình 5 không 3 sạch, gồm: (1) Không đói nghèo; (2) Không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; (3) Không có bạo lực gia đình; (4) Không sinh con thứ ba trở lên; (5) Không có trẻ em suy dinh dưỡng và trẻ em bỏ học; (6) Sạch nhà;

(7) Sạch bếp; (8) Sạch ngõ.

(5) http://lanhdaonu.vn, UNDP, Sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam, ngày 12-4-2015.

TS Nguyễn Thị Báo

Ban Thanh tra,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền