Trang chủ    Thực tiễn    Để phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
Thứ ba, 31 Tháng 5 2016 09:37
2053 Lượt xem

Để phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ

(LLCT) - Phát triển bền vững (sustainable development) được hiểu là phát triển dựa trên sự bảo đảm quan hệ hài hoà giữa hiệu quả kinh tế với một xã hội công bằng gắn với một môi trường được bảo vệ, gìn giữ và sử dụng hợp lý; là sự phát triển hài hòa về mọi mặt trong hiện tại và bảo đảm tạo lập các yếu tố, tiền đề cho sự phát triển của các thế hệ tương lai.

Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (VKTTĐTB) gồm 5 tỉnh: thành phố Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. VKTTĐTB có vị trí chiến lược rất quan trọng về địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng;VKTTĐTB có bờ biển dài trên 500 km, nguồn tài nguyênđa dạng, phong phú, đặc biệt là tài nguyên du lịch,với 4 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận,  nhiều danh lam thắng cảnh kỳ thú; có hệ thống các khu kinh tế và khu công nghiệp (10 khu kinh tế, 44 khu công nghiệp).Trong những năm2006 - 2012, tỷ trọng GDP củavùng tăng trưởng so với cả nước từ 6,3% lên 8,8%;tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức khá cao và ổn định (bình quân khoảng 12,45%/năm, cao hơn gần 2 lần so với tốc độtăng trưởng của cả nước). Hệ thống chính sách của Nhà nước và địa phương có liên quan đến phát triển bền vững VKTTĐTB ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Các chính sách không chỉ đưa ra các định hướng phát triển vùng, hình thành khung mẫu cho sự hình thành và phát triển đúng hướng của VKTTĐ mà còn phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của vùng.

Đặc biệt những chính sách quan trọng như phát triểnhạ tầng đô thị, phát triển công nghiệp, ưu tiên các nguồn vốn đầu tư,...đã giúp cho vùng này tăng trưởng nhanh, hình thành các trung tâm quan trọng về kinh tế - văn hóa -xã hội.

Các địa phương đều nỗ lực cải thiện năng lực quản lý của chính quyền, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, minh bạch.

Các tỉnh,  thành trong vùng đã ký kết “Biên bản cam kết liên kết phát triển 7 tỉnh duyên hải miền Trung”, thống nhất thành lập “Tổ điều phối vùng”, “Nhóm tư vấn liên kết phát triển vùng”, “Quỹ Nghiên cứu Phát triển miền Trung” nhằm  tổ chức , giám sát và điều hành hoạt động liên kết vùng.

Một số tồn tại, hạn chế, bất cập

a) Chủ trương, chính sách của vùng và các tỉnh, thành phố còn chậm trễ, thiếu đồng bộ.

Vùng KTTĐ miền Trung được thành lập từ năm 1997(1), nhưng đến cuối năm 2014  Quy hoạch phát triển tổng thể phát triển kinh tế - xã hộivùng KTTĐ Trung Bộ đến năm 2020 mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt(2); nên chưa xây dựng được các kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn cho vùng,thiếu các chính sách định hướng và điều tiết vĩ mô riêng biệt;thiếu các chính sách ưu tiên đểtạo sự hấp dẫn thu hút các yếu tố nguồn lực bên ngoài và nguồn lực chất lượng cao.

Dothiếu các chính sách liên quan đến quy hoạch phát triển khu công nghiệp, đô thị của vùng, dẫn đến tình trạng phát triển ồ ạt, chồng chéo giữa các KCN ởcác địa phương, nênkém hiệu quả và thiếu bền vững; các hoạt động thu hút FDI vào các KCN thiếu sự lựa chọn về kỹ thuật, công nghệ.

Phần lớn các chính sách liên quan đến quy hoạch về hạ tầng,môi trường vẫn chưa được Chính phủ phê duyệt hoặc trong giai đoạn thẩm định nên ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định, cân đối giữa kinh tế với các yếu tố bổ trợ có liên quan.

Thiếu hệ thống văn bản hướng dẫn, pháp lệnh hay chế tài cụ thể có liên quan đến tổ chức thực hiện chính sách. Điều này ảnh hưởng lớn đến tiến độ thực hiện, chất lượng thực thi các chính sách cũng như xử lý các hiện tượng vi phạm chính sách.

Các chính sách mới chỉhướng tới phát triển theo chiều rộng,nhất là phát triển đô thị, KCNtrong vùng,đều theo quan điểm mở rộng, lấp kín không gian. Vì vậy,không gian đô thị hay các khu dân cư tập trung, KCN, hệ thống hạ tầng đều dàn trải, phân tán,manh mún, rất khó khăn trong việc mở rộng, nâng cấp hay hiện đại hóa.

Các chính sách chủ yếu chú trọngtăng trưởng nhanh, mang tính ngắn hạn, không bảo đảm bền vững trong dài hạn. Chẳng hạn,Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp đãưu tiên phát triển công nghiệp cơ khí, thường gâyô nhiễm cao, tiếng ồn lớn. Ngoài ra, việcphát triển nhanh, với số lượng lớn các KCN với đủ loại quy mô trên địa bàn các tỉnh đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường; hệ thống đường sá, cơ sở hạ tầng, nhà ở, các điều kiện sinh hoạt đều quá tải, không đáp ứng được yêu cầu.

Thiếu bộ máy tổ chức triển khai thực hiện chính sách chung cho toàn vùng.Hiện nay, quản lý hoạt động của vùng có Ban chỉ đạo, Văn phòng điều phối và tổ công tác. Đây là cơ quan theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo thực hiện các quy chế chính sách; kiểm tra, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm cho hoạt động của vùngdo cơ chế hoạt động của nó, bộ máy này không thể đại diện cho toàn vùng để điều phối hay tổ chức phối hợp hoạt động của các địa phương, bộ ngành có liên quan.

b) Về các chính sách liên kết hợp tác

Mặc dù các tỉnh đã cócam kết,nhưng những cam kết này rất ít đi vào thực tiễn,do không có sự ràng buộc vềpháp lý, lợi ích địa phương còn chi phối,các ý tưởng liên kết chưa được cụ thể hóa trong các kế hoạch, quy hoạch phát triển mang tính dài hạn.

Sự phối hợp giữa các tỉnh thành vẫn chủ yếu mang tính tự phát và chỉ dừng lại ở mức độ cam kết, thỏa thuận giữa lãnh đạo các địa phương, phát sinh theo từng dự án, từng hoạt động cụ thể.

Phạm vi liên kết giữa các tỉnh về kinh tế còn hạn hẹp và đơn điệu.Các liên kết về kinh tế chưa dựa trên sự chuyên môn hóa hay phân công lao động mà chủ yếu là liên kết giữa các doanh nghiệp, các địa phương giáp nhau. Thí dụ,mỗi địa phương trong vùng đều có quy hoạch KCN cho mình,nhưng không có quy hoạch KCN thống nhất cho toàn vùng. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trong phát triển KCN giữa các tỉnh.

Liên kết trong sử dụng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ logistics trong vùng còn kém hiệu quả, hạ tầng giao thông kết nối giữa các tỉnh trong vùng chưađồng bộ.

Việc phát triển kinh tế ở một số nơi, một số lĩnh vực còn mang tính tự phát, tốc độ tăng trưởng có tăng nhưng chưa thật sự vững chắc, chưa đồng đều, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước, chất thải rắn, khí, tại lưu vực các sông gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân...

c) Về thể chế, chính sách đầu tư

Các chính sách ưu đãi áp dụng cho các địa phương trong vùng chưa đồng bộ và chưa đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư để có thể bù đắp những bất lợi về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội, nhất là sự yếu kém của kết cấuhạ tầng và thiên tai.

Cơ chế, chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư của từng địa phương chưa có sự thống nhất, thiếu hợp tác. Các tỉnh thành phố vì lợi ích cục bộ địa phương, lợi ích trước mắt và chạy theo thành tích của mình mà chưa tính đến lợi ích lâu dài, bỏ qua lợi ích tổng thể vùng đã thực hiện các biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh. Xuất hiện tình trạng những dự án treo, chiếm đất, vốn đăng ký vượt quá nhu cầu và khả năng của nhà đầu tư kéo dài và tràn lan. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ dự án FDI triển khai thấp, tỷ lệ vốn thực hiện khá thấp so với vốn đăng ký, gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho đời sống của người dân trong vùng dự .

Thiếu sự lựa chọn trong chính sách gọi mời các nhà đầu tư; các chính sách phát triển không dựa trên tiêu chí lợi thế, thế mạnh phát triển ngành của từng vùng, từng địa phương, làm cho không những hiệu quả kinh tế kém mà còn dẫn đến chuyển dịch cơ cấu không rõ ràng, không duy trì được sự tương xứng hay cân đối giữa các ngành có mối liên hệ với nhau.

Mặc dù đóng góp lớn cho sự phát triển chung của cả nước nhưng mức độ đầu tư trở lại cho khu vực này còn khá khiêm tốn, dẫn đến tình trạng kết cấu hạ tầng chưa theo kịp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng và đang có dấu hiệu ngày càng quá tải.

Giải pháp khắc phục những hạn chế, bất cập về mặt thể chế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung

a. Tăng cường liên kết, hợp tác

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình cho phù hợp với quy hoạch vùng đang được Chính phủ phê duyệt năm 2014. Trong quy hoạch phát triển của mộtđịa phương cần phản ánh các mục tiêu liên kết vùng, nhằm đóng góp vào quá trình thực hiện có hiệu quả Quy hoạch vùng. Các địa phương nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách riêng của tỉnh nhưng phải bảo đảm sự thống nhất trong toàn vùng với các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân cấp.

Xây dựng quy hoạch phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, các ngành sản phẩm chủ yếu và các đề án về cơ chế chính sách phối hợp phát triển các ngành và lĩnh vực của các bộ, ngành triển khai trên địa bàn tỉnh. Các tỉnh cần phối hợp với các bộ để bảo đảm quản lý ngành trên lãnh thổ được thực thi đúng pháp luật.

Các tỉnh cần phối hợp trong khâu lập, thẩm định, quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương nhằm tránh sự chồng chéo, không phù hợp với định hướng chung của vùng.

Các tỉnh chủ động tổ chức các hội nghị để bàn thảo về các vấn đề cần giải quyết mang tính liên tỉnh cùng với sự tham gia của các bộ, ngành liên quan như: sử dụng hiệu quả quỹ đất gắn với bố trí lại các KCN nhằm khắc phục tình trạng lãng phí đất; đào tạo nghề chất lượng cao để giải quyết vấn đề thiếu lao động có kỹ năng; hệ thống giao thông kết nối liên tỉnh trong toàn vùng;...

Liên kết, hợp tác trong phát triển nguồn nhân lực: Tăng cường liên kết giữa các cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề với các doanh nghiệp, nhất là các tập đoàn, doanh nghiệp lớn để tăng nhanh quy mô và nâng cao chất lượng dạy nghề; đồng thời, tập trung dạy nghề chất lượng cao theo đặt hàng của các doanh nghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế đối với các ngành kinh tế, các lĩnh vực quan trọng của vùng như du lịch, thương mại, vận tải - kho bãi - cảng biển, điện, điện tử, điện lạnh, viễn thông, công nghệ thông tin, cơ khí điện tử...

Liên kết xây dựng kết cấuhạ tầng kỹ thuật: Các địa phương trong vùng liên kết xây dựng và nâng cấp, mở rộng những tuyến đường liên tỉnh nối các đô thị trung tâm của các tỉnh; cải tạo đường thủy, nâng cấp cảng sông, cảng biển. Tiến hành rà soát và chế tài việc thực hiện các quy hoạch đô thị, KCN trong vùng; chú trọng xã hội hóa, huy động các thành phần kinh tế tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng. Thành phốhạt nhân của vùng (Đà Nẵng) cần đi đầu trong việc lập kế hoạch phát triển hệ thống kết cấuhạ tầng để làm cơ sở các các tỉnh khác trong vùng phối hợp xây dựng, đảm bảo tính nhất quán và sự bổ trợ trong các kế hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển chung của toàn vùng.

Liên kết, hợp tác trong công tác bảo vệ môi trường: Xây dựng, rà soát quy hoạch cấp, thoát nước trên toàn vùng, đặc biệt là các khu đô thị, khu tập trung KCN, KCX. Nghiên cứu xây dựng các khu vực chứa chất thải, những nhà máy xử lý chất thải cho các đô thị, chọn vị trí thích hợp trên địa bàn vùng.Tăng cường khung thể chế và các nguồn lực cho công tác giám sát, cưỡng chế. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh trong vùng khi xem xét các dự án đầu tư lớn, có tác động đến môi trường của cả vùng.

b. Thực hiện tốt chính sách thu hút đầu tư

Hình thành các trung tâm xúc tiến đầu tư quy mô vùng. Trung tâm này có thể đặt tại các thành phố lớn, các trung tâm vùng và vệ tinh là các chi nhánh tại các địa phương trong vùng. Các trung tâm này sẽ thực hiện công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, ký kết hợp đồng sản xuất kinh doanh, bán,giới thiệu sản phẩm; giới thiệu các chương trình, các dự án đầu tư, xây dựng chương trình quảng cáo chung đối với các lĩnh vực mà các bên liên quan. Ngoài ra, các trung tâm tổ chức thường xuyên hoặc định kỳ các hội chợ tại các địa phương trong vùng (thay đổi luân phiên); tổ chức các cuộc đàm phán chung với các đối tác nước ngoài về các chương trình, dự án đầu tư.

Cần xác định danh mục quốc gia về đầu tư, trong đó tập hợp danh mục tất cả dự án kêu gọi đầu tư của các địa phương, đảm bảo tính khả thi của từng dự án và hướng vào các ngành trọng điểm của vùng.

Xúc tiến thành lập cổng thông tin điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu kinh tế - xã hội của toàn vùng nhằm xây dựng và giới thiệu hình ảnh của vùng vớicác nhà đầu tưtrong và ngoài nước.

Cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh vùng. Chia sẻ kinh nghiệm giữa các tỉnh, thành phố nhằm tăng cường năng lực điều hành của chính quyền địa phương thông qua việc cải thiện chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), tập trung vào việc giảm chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp, nâng cao tính minh bạch và thông tin, tăng khả năng tiếp cận đất đai của doanh nghiệp, giảm chi phí không chính thức, giảm chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước, nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.

Công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng và từng địa phương, nhất là các chương trình, dự án, đề án liên kết phát triển ngành, lĩnh vực thông qua cổng thông tin điện tử của từng địa phươngvà của toàn vùng...

Tổ chức định kỳ hội nghị phát triển vùng nhằm thu hút được nhiều ý kiến đa dạng, nhiều chiều từ các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp, là cơ sở tham khảo quan trọng để các tỉnh, thành phố trong vùng hoạch định chính sách.

c. Khắc phục tâm lý cục bộ địa phương, tạo dựng một “không gian kinh tế chung” của vùng

Các địa phương cần khắc phục tình trạng cục bộ địa phương, tự biến mình thành những “ốc đảo”, tự phát triển theo hướng riêng của mình. Định kỳ tổ chức đối thoại giữa lãnh đạo các địa phương vềviệc liên kết, hợp tác đối với sự phát triển của địa phương nói riêng và của vùng nói chung. Cần có một cơ chế phối hợp chặt chẽ khi phát triển kinh tế vùng dưới sự điều hành của một “nhạc trưởng” - với sự nhất trí, đồng thuận cao giữa các tỉnh. Tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm”.Cần có một “Ban điều phối Vùng” quy tụ được cácnhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia, nhà tài trợ để theo dõi, phát triển vùng một cách khoa học, sâu sát và khách quan. Trên tinh thần đó, “Ban điều phối Vùng”, với vai trò và trách nhiệm của mình, sẽ  định hướng có hiệu quả các dự án, đem lại lợi ích cho toàn vùng. Đồng thời,cần thành lập Quỹ Nghiên cứu phát triển miền Trung và liên tục tổ chức những diễn đàn kinh tế chung cho cả khu vực. Tất cả để tạo lập sự gắn kết tốt hơn nữa từ các địa phương,  cùng giải quyết những bất cập về kết cấu hạ tầng, thể chế chính sách, nguồn nhân lực.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2015

(1) Theo: Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg ngày 29-11-1997 của Thủ tướng Chính phủ.

(2) Quyết định số 1874/QĐ-TTg ngày 13-10-2014của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

 

PGS, TS Lê Văn Đính

Học viện Chính trị khu vực III

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền