Trang chủ    Thực tiễn    Nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào Khmer Tây Nam Bộ
Thứ sáu, 25 Tháng 11 2016 17:19
2562 Lượt xem

Nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào Khmer Tây Nam Bộ

(LLCT) - Cùng với Tây Bắc và Tây Nguyên, Tây Nam Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh; là địa bàn có nhiều đồng bào dân tộc, tôn giáo sinh sống; là nơi các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt. Hành động, âm mưu của chúng ngày một tinh vi, xảo quyệt hơn với mục đích “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá cách mạng nước ta... với nhiều diễn biến phức tạp.

Đồng bào Khmer sống tập trung đông ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Hậu Giang, An Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Cụ thể:

Ở những tỉnh có đông đồng bào Khmer như Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, số xã, phường, thị trấn có đông đồng bào Khmer chiếm tỷ lệ khá cao trong đơn vị hành chính cấp xã. Tỉnh Sóc Trăng có đến 83 xã, phường, thị trấn có đông đồng bào Khmer sinh sống, chiếm 76,14% đơn vị hành chính cấp xã toàn tỉnh. Tỉnh Trà Vinh có 63 xã, phường, thị trấn có đông đồng bào Khmer, chiếm 60,57% đơn vị hành chính cấp xã. Tỉnh Kiên Giang có 59 xã, phường, thị trấn chiếm 40,97% đơn vị hành chính cấp xã toàn tỉnh... Ở các địa phương này, phần lớn đồng bào Khmer sống ở vùng sâu, vùng xa; điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp kém; kinh tế thị trường chưa phát triển. Một số đồng bào sống trong các phum, sóc gần như biệt lập, khép kín với bên ngoài, tập trung ở huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang), Hà Tiên và Kiên Lương (Kiên Giang)... Có nhiều xã đồng bào Khmer tập trung rất đông, chiếm tỷ lệ rất cao (trên 80%). Nhiều ấp có 100% dân cư là đồng bào Khmer. Nhìn chung, đồng bào Khmer mà chủ yếu sinh sống ở xã, chiếm tới 89,64% dân sốsống ở phường, thị trấn rất ít.

Các cấp ủy đảng, chính quyền các tỉnh Tây Nam Bộ đặc biệtquan tâm công tác vận động nhân dân, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng ở Tây Nam Bộ đã quán triệt, cụ thể hóa những chủ trương, quan điểm của Đảng vào điều kiện ở từng địa phương như: Tỉnh ủy Sóc Trăng đã ra Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 05-4-2002 “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer”; Tỉnh ủy An Giang ra Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 23-10-2007 “về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015”; Tỉnh ủy Trà Vinh ra Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 09-9-2011 “về tiếp tục phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer 2011-2015”... Các Đảng bộ chính quyền có đông đồng bào Khmer ở Tây Nam Bộ tuyên truyền, động viên, giác ngộ, tập hợp, tổ chức đồng bào Khmer hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho đồng bào; tôn trọng, hỗ trợ, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để đồng bào Khmer phát triển chung trong cộng đồng dân tộc Việt Nam; phát huy quyền làm chủ, tiềm năng, thế mạnh của đồng bào Khmer vào việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ở Tây Nam Bộ; tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, góp phần vào sự ổn định và phát triển chung của đất nước.

1. Thực trạng công tác vận động đồng bào Khmer Tây Nam Bộ

Trong những năm qua, công tác dân vận nói chung, công tác vận động đồng bào Khmer Tây Nam Bộ nói riêng đã có sự chuyển biến tích cực trên nhiều mặt. Các đảng bộ, chính quyền địa phương đã thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức vận động; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân vận chuyên trách; có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đối với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong công tác vận động đồng bào Khmer.

Có thể nói, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào Khmer Tây Nam Bộ được cải thiện và nâng lên rõ nét; truyền thống văn hóa của dân tộc được bảo tồn, gìn giữ và phát huy. Đồng bào luôn tin tưởng và tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của địa phương. Cùng với nhân dân các dân tộc khác, đồng bào Khmer Tây Nam Bộ hăng hái chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, đồng bào Khmer luôn tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, giám sát cán bộ, đảng viên. Đồng bào ngày càng ý thức hơn về quyền làm chủ của mình, tham gia thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tinh thần cảnh giác, đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, các phần tử xấu ngày càng nâng lên.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong thực tế công tác vận động đồng bào Khmer còn những hạn chế:

Đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn; trình độ giác ngộ về chính trị và trình độ dân trí của đồng bào Khmer chưa có chuyển biến rõ nét; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm; việc áp dụng kỹ thuật vào sản xuất và đời sống còn rất hạn chế; tỷ lệ hộ nghèo còn cao; tệ nạn xã hội, tiêu cực, tập tục lạc hậu vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Việc tranh chấp đất đai, khiếu kiện đông người vẫn còn phức tạp, có lúc diễn ra gay gắt... Cụ thể: một bộ phận không nhỏ đồng bào Khmer còn ít quan tâm đến đời sống chính trị của đất nước; ở một số nơi, đồng bào chưa thật sự tin tưởng vào tổ chức đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên; một số đồng bào thực hiện chưa nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kể cả sư, sãi, người có chức sắc...

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một số tổ chức đảng, chính quyền ở Tây Nam Bộ chưa coi trọng công tác vận động đồng bào Khmer; nhận thức và trách nhiệm trong công tác vận động đồng bào Khmer chưa cao; việc lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền và đoàn thể các cấp trong công tác này chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ; việc nắm bắt thông tin, xử lý các vấn đề đặt ra trong đồng bào Khmer có lúc chưa kịp thời, chưa thỏa đáng. Việc đổi mới nội dung và phương thức vận động đồng bào Khmer ở một số đảng bộ, chính quyền còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chưa chú ý việc bồi dưỡng, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận. Chưa có sự phối hợp nhuần nhuyễn, đồng bộ của cả hệ thống chính trị về công tác dân vận. Tình trạng thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đã gây mất niềm tin đối với đồng bào,... Bên cạnh đó, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá cách mạng, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ; một bộ phận đồng bào còn mang nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính sách của Đảng, Nhà nước, địa phương; xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc thù của đồng bào Khmer về điều kiện sinh sống; phong tục tập quán cũ, lạc hậu;...

2. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác dân vận đồng bào Khmer Tây Nam Bộ trong tình hình mới

Trước thực trạng nêu trên để công tác dân vận trong đồng bào Khmer Tây Nam Bộ trong thời gian tới, các tổ chức đảng, chính quyền địa phương ở Tây Nam Bộ cần phải tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở Tây Nam Bộ phải nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác vận động đồng bào Khmer

Trước hết phải làm chuyển biến nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về công tác này; phải xác định công tác dân vận trong đồng bào Khmer có vai trò đặc biệt. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡngđội ngũ cán bộ, phụ trách công tác dân vận trong đồng bào Khmer, xây dựng đội ngũ cán bộđủ phẩm chất, năng lực, sâu sát cơ sở, chăm lo lợi ích của đồng bào, được đồng bào tin cậy, tín nhiệm.

Từ thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy, tổ chức đảng thực sự coi trọng công tác vận động đồng bào Khmer thì sẽ thu hút được đông đảo đồng bào Khmer tham gia phong trào ở địa phươngđể đời sống của đồng bào Khmer được cải thiện, niềmtin của đồng bào đối với đảng, chính quyền được củng cố, tăng cường. Ngược lại, nơi nào, tổ chức đảng, chính quyền chưa nhận thức đúng vị trí, tầm quan trọng của công tác vận động đồng bào Khmer thì phong trào ở nơi đó không phát triển, kinh tế - xã hội trì trệ, đời sống của đồng bào gặp nhiều khó khăn, tình hình an ninh trật tự phức tạp, lòng tin của đồng bào đối với tổ chức đảng, chính quyền giảm sút.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc, ý thức công dân Việt Nam trong đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam Bộ

Hiện nay, các thế lực thù địch đangtìm mọi cách tuyên truyền lôi kéo,kích động gây chia rẽ dân tộc nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảngvà nhân dân ta; các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào Khmer, đặc biệt là giáo dục ý thức bảo vệ an ninh Tổ quốc, cảnh giác với các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch.

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng làm cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên các đoàn thể, sư, sãi và đồng bào Khmer nhận rõ những thành tựu kinh tế - xã hội của địa phương trong thời gian qua, trong đó có vùng đồng bào dân tộc Khmer, về các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc, tạo sự thống nhất về nhận thức tư tưởng, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước; phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc, ý thức tự lực tự cường, đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, kích động, gây chia rẽ nội bộ của bọn phản động và các thế lực thù địch.

Để công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động có hiệu quả, các cơ quan, đơn vị phải nắm chắc tình hình mọi mặt của địa phương, về trình độ học vấn, đặc điểm, phong tục tập quán, tín ngưỡng của đồng bào Khmer Tây Nam Bộ để có cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền, giáo dục.Đồng thời,cải tiến hình thức thông tin cho phù hợp với từng đối tượng quần chúng cụ thể để đồng bào Khmer dễ nhớ.

Trong công tác tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc, cần lồng ghép với công tác tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, văn hóa, nâng cao trình độ chung của đồng bào dân tộc, bởi vì đạo đức và văn hóa là những yếu tố quan trọng để tạo ra ý thức bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống củađồng bào dân tộc Khmer Tây Nam Bộ

Thực trạng kinh tế và đời sống vật chất của người Khmer Tây Nam Bộ cho thấy phát triển kinh tế và nâng cao đời sống cho đồng bào là vấn đề hết sức cấp bách. Nó vừa phản ánh chính sách dân tộc, đồng thời là cơ sở để thực hiện chính sách đó,mà trước hết là vấn đề bình đẳng, đoàn kết.

Lịch sử phát triển đồng bằng sông Cửu Long nói chung và đặc điểm, điều kiện của người Khmer Tây Nam Bộ nói riêngcho thấy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng đồng bào Khmer có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.Nền kinh tế thuần nông, độc canh cây lúa trong một môi trường sinh thái ngập mặn, nhiễm phèn, cơ sở hạ tầngthấpkémđãkìm hãm nền kinh tế của vùng Khmer triền miên trong sự kém phát triển,và hậu quả tất yếu là sự nghèo khổ.

Vì vậy, cần giải quyết tốt vấn đề ruộng đất đối với đồng bào Khmer Tây Nam Bộ. Nhu cầu về ruộng đất của đồng bào Khmer rất cao. Giải quyết vấn đề này, giải pháp cụ thể là triển khai thực tốt Quyết định 74/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc Khmer. Chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục đầu tư tạo cơ hội cho nông dân, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất.Quan tâm đầu tư hệ thống thủy lợi phục vụ nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, đầu tư cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, khuyến nông, khuyến ngư...

Thứ tư, phát triển văn hóa -giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam Bộ

Ở người Khmer,văn hóa không chỉ là một đặc trưng tộc người, mà còn là điều kiện bảo đảm cho sự ổn định và là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của họ. Cho nên việc bảo tồn và phát huy những tinh hoa văn hóa của người Khmer Tây Nam Bộ được coi là giải pháp hàng đầu trong việc ứng xử với người Khmer trên lĩnh vực văn hóa. Bảo tồn không chỉ lưu giữ các sản phẩm văn hóa, mà còn phải đưa vào cuộc sống con người dân tộc để nó tồn tại, vận động và phát triển trong bối cảnh chung của đất nước và của thời đại. Có vậy thì văn hóa dân tộc mới có sức sống bền lâu và mới trở thành động lực của sự phát triển; mới có điều kiện đào thải những yếu tố không phù hợp vốn sinh ra trong xã hội tiền công nghiệp, đồng thời chống chọi được những áp đặt trong phát triển văn hóa.

Với quan điểm trên,việc khai thác và phát huy vốn văn hóa của người Khmer như các lễ hội truyền thống (Chol Chnăm Thmei, Đônta, Ok Om bok...), sân khấu (Rôbăm, Dù kê), múa hát, văn học dân gian,... phục vụ cho nhu cầu văn hóa của người Khmer Tây Nam Bộ là hết sức cần thiết. Tuy vậy,việc đẩy mạnh văn hóa cơ sở, làm cho người dân tộc được hưởng thụ và phát triển là điều cốt lõi, mục đích cuối cùng của mọi hoạt động văn hóa. Đây cũng là thể hiện chính sách dân tộc, chính sách xã hội của Nhà nước ta, vì hầu hết phum, sóccủa người Khmer đều ở vùng sâu, vùng xa, kém phát triển.

Trong vấn đề phát triển văn hóa của đồng bào Khmer Tây Nam Bộ , vai trò của ngôi chùa cần được tính toán để sử dụng cho hợp lý. Chùa Khmer không đơn thuần là chốn tu hành, từ lâu nó là trung tâm sinh hoạt văn hóa - xã hội của ngườiKhmer. Hiện nay, xây dựng chùa trở thành “tụ điểm văn hóa” cũng là điều hợp lý. Sử dụng ngôi chùa như môi trường văn hóa, giáo dục là điều phù hợp, đáp ứng nhu cầu văn hóa của đồng bào. Nhưng không thể “giao khoán” cho chùa làm văn hóa, và cũng không nên quan niệm phát triển văn hóa vùng đồng bào Khmer theo hướng “văn hóa chùa” là tất cả.

Trình độ dân trí quá thấp là chỗ dựa cho sự tồn tại dai dẳng hủ tục lạc hậu, không đủ sức để tiếp nhận các yếu tố văn minh hiện đại cần thiết cho sự phát triển. Giáo dục ở vùng Khmer Tây Nam Bộ, phải có giải pháp đồng bộ, từ chính sách đầu tư, chính sách đối với giáo viên đến việc tổ chức các loại hình trường lớp, các hình thức đào tạo phù hợp với điều kiện, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, cả vùng và từng địa bàn cụ thể, theo phương châm “xã hội hóa” giáo dục.Mọi loại hình giáo dục, đào tạo ở vùng đồng bào Khmer đều phải tính đến sự ổn định về mặt tâm lý, đến sự an toàn xã hội, nhưng mục đích nâng cao dân trí, đào tạo một thế hệ công dân Việt Nam là người dân tộc Khmer có tri thức làm động lực cho sự phát triển chung của đất nước là điều cốt lõi nhất.

Thứ năm, cần có những chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo đúng đắn, phù hợp trong đồng dân tộc Khmer Tây Nam Bộ

Tiếp tục làm tốt công tác phát triển đảng, quy hoạch, đào tạo cán bộ trong đồng bào dân tộc Khmer. Củng cố, phát huy vai trò của Hội đoàn kết sư, sãi yêu nước các cấp. Củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo, dân tộc các tỉnh và tổ chức, bộ máy, cán bộ làm công tác dân tộc các cấp đủ sức làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về lĩnh vực dân tộc.

Đạo Phật tiểu thừa đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời sống của đồng bào Khmer. Tôn giáo và bản sắc dân tộc ở người Khmer được gắn chặt, hòa quyện vào nhau. Vì vậy, cần giải quyết các mối quan hệ giữa nhà chùa với các thiết chế khác trong đồng bào Khmer, giữa Tỉnh hội Phật giáo với các Hội đoàn kết sư, sãi yêu nước. Cần đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, song phải bảo đảm sự thống nhất lực lượng không những trong từng địa phương, từng dân tộc mà còn trong phạm vi cả nước.

Thứ sáu, đào tạo cán bộ và xây dựng lực lượng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam Bộ

Đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam Bộ cũng như các dân tộc khác,tầng lớp trí thức luôn được coi là bộ phận đại biểu cho văn hóa và truyền thống chân chính của dân tộc mình. Họ là cầu nối giữa xã hội tộc người và xã hội chung quanh. Ở đồng bào Khmer,đội ngũ trí thức có thể chia làm hai loại: trí thức tôn giáo và trí thức đượcđào tạobởi hệ thống giáo dục quốc dân. Thực tế,số trí thức tôn giáo có số lượng đông nhưng điều kiện để học lên cao còn nhiều hạn chế nên trình độ còn giới hạn. Số trí thức có trình độ từ cao đẳng trở lên trong đồng bào Khmer có tỷ lệ rấtthấp, thấp hơn mức trung bình của các dân tộc thiểu số ở nước ta, dù rằng đồng bào Khmer sinh sống chủ yếu ở đồng bằng. Do vậy,vấn đề đào tạo một tầng lớp trí thức mới cho vùng đồng bào Khmer Tây Nam Bộ là cấp bách. Việc này có liên quan đến chính sách giáo dục, đặc biệt là các giải pháp đào tạo có trọng tâm, trọng điểm.

Công tác cán bộ luôn được các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ quan tâm đã có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc Khmer theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ,đảng viên là người Khmer vẫn còn thiếu và yếu so với yêu cầu. Ngoài hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, một bộ phận cán bộ dân tộc Khmer điều kiện kinh tế còn khó khăn

Để thực hiện tốt chủ trương phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer Tây Nam Bộ, đòi hỏi bứcthiết phải tiếp tục tăng cường công tác cán bộ, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng nòng cốt của

Thứ bảy, phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam Bộ

Phát huy mạnh mẽ vai trò của những người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ. Các cấp ủy chính quyền và các đoàn thể chính trị cơ sở, cần tiếp tục chăm lo, quan tâm phát huy vai trò của người có uy tín theo hướng làm tốt một số việc chủ yếu sau:

- Cần phải xác định rõ người có uy tín trong các dân tộc là người được đồng bào dân tộc tín nhiệm, có mối liên hệ chặt chẽ và ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển cộng đồng dân cư trong vùng dân tộc; là chỗ dựa quan trọng của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, góp phần thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giữ gìn khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Người có uy tín làm nòng cốt, gương mẫu trong công tác vận động và phát huy mạnh mẽ vai trò, mặt tích cực của quần chúng các dân tộc.

- Phát huy người có uy tín trong các dân tộc phải chủ động có kế hoạch phân công nhiệm vụ, bố trí công việc cho họ tham gia cùng chính quyền cơ sở nhằm phát huy họ, phối hợp cùng với họ; tăng cường các hình thức gặp gỡ, đối thoại, phổ biến cho họ nắm được chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo về phòng, chống tội phạm,...

- Kịp thời biểu dương, khen thưởng người có thành tích xuất sắc. Đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ người có uy tín và gia đình họ, không để kẻ địch, phần tử xấu tác động, lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo, đe dọa, vô hiệu hóa họ. Đối với người nhất thời có việc làm tiêu cực phải gần gũi đối thoại, kiên trì vận động, phát huy mặt tích cực để hạn chế mặt tiêu cực; tránh định kiến, ứng xử thô bạo, gây bức xúc,dẫn đến nghi ngờ, xa lánh, đối lập họ với Đảng, chính quyền và Mặt trận.

- Cấp ủy, chính quyền tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện nghiêm Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg về chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số và Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg về phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc của Chính phủ. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy, chính quyền và các ngành có liên quan nhận thức, đánh giá đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ quan trọng và thực hiện tốt công tác này, thì ở đó người có uy tín luôn được phát huy tốt trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh trật tự ở địa phương.

Công tác vậnđộngtrong đồng bào Khmer Tây Nam Bộ cần được tiến hành đồng bộ, trên tất cả các khâu, các mặt. Trong đó, đầu tiên là phải nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể và cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong công tác vận động đồng bào dân tộc Khmer. Cùng với đó cần thực hiện tốt các giải pháp về nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc Khmer, về phát triển kinh tế, văn hóa giáo dục, kết cấu hạ tầng, xây dựng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên người Khmer, đổi mới nội dung, phương thức vận động đồng bào dân tộc Khmer... Thực hiện tốt, đồng bộ những nội dung trên chắc chắn công tác dân vận trong đồng bào Khmer Tây Nam Bộ sẽ có những tiến bộ mới.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2016

ThS Nguyễn Phấn Đấu

Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền