Trang chủ    Thực tiễn    Những trụ cột trong mô hình phát triển Việt Nam hiện nay
Thứ hai, 30 Tháng 11 2015 16:19
4240 Lượt xem

Những trụ cột trong mô hình phát triển Việt Nam hiện nay

(LLCT) - Trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, thực tiễn phát triển đất nước, đồng thời tiếp thu, kế thừa những lý thuyết, mô hình phát triển trên thế giới, và xác định xu thế phát triển của thời đại, mô hình phát triển Việt Nam đang dần được xác lập, phù hợp với những đặc trưng đất nước: quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế thấp kém, chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Quan điểm nhất quán của Đảng ta là: đổi mới đồng bộ kinh tế và chính trị, phát triển kinh tế phải đồng thời gắn với công bằng xã hội, với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

(Đua ghe Ngo, Bạc Liêu, nguồn: internet)

1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế tri thức

Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đó là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chế độ XHCN, thể hiện ở cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, quản lý và phân phối. Nó có các đặc trưng chủ yếu: (1) Về mục tiêu phát triển, đó là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao, chủ yếu dựa vào thành tựu khoa học - công nghệ; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Mục tiêu này xuất phát từ lý thuyết phát triển Mác - Lênin và thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam mấy chục năm qua. (2) Về lực lư­­ợng sản xuất, trình độ xã hội hoá cao, bao gồm những ngành sản xuất có hàm lượng khoa học - công nghệ cao; nguồn lực không quá chênh lệch giữa các vùng, địa phương; kết cấu hạ tầng được xây dựng đồng bộ và hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và kinh tế tri thức. (3) Về sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại, bao gồm cả sở hữu tư nhân, sở hữu công cộng, trong đó sở hữu nhà nước là công cụ quan trọng để điều tiết nền kinh tế. (4) Về phương thức vận hành và quản lý, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục các khuyết tật của kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. (5) Về phân phối, phân phối theo quy mô và hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Thu nhập phụ thuộc vào mức độ đóng góp và khả năng sử dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, để hạn chế chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, Nhà nước sẽ có chính sách phân phối phù hợp, vừa bảo đảm nguyên tắc của cơ chế thị trường, tránh bình quân, cào bằng, vừa bảo đảm mức sống tối thiểu cho nhóm dân cư nghèo; (6) Về động lực, nguồn lực phát triển, đó là giá trị gia tăng và sự hài hoà về lợi ích của các chủ thể kinh tế; sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài; (7) Về quan hệ với văn hoá - xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội được chú ý ngay trong từng bước và cả quá trình phát triển kinh tế...

Đây là mô hình kinh tế mới, trong đó kết hợp cái phổ biến là “kinh tế thị trường” và cái đặc thù là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nền kinh tế thị trường đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, được nhân dân đồng tình và là chủ thể xây dựng.

Trong quá trình phát triển nền kinh tế, cần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, bởi chỉ có như vậy nền kinh tế thị trường mới thực sự đi theo định hướng XHCN. Để nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội. 

Trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ cụ thể: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững;Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông; Phát triển hài hoà, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới.

2. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân

Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam có các đặc trưng: 1) Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; 2) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; 3) Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Quyền lực nhà nước thống nhất, được phân công rõ ràng, trong đó Quốc hội thay mặt nhân dân nắm giữ quyền lực nhà nước tối cao, đồng thời thực hiện quyền lập pháp, quyết định những công việc trọng yếu quốc gia. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền tư pháp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Đây chính là nội dung căn bản của nguyên tắc tập trung thống nhất trong tổ chức bộ máy nhà nước, đồng thời là cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân dân, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động thống nhất và thông suốt.

Tuy nhiên, trên thực tế bộ máy nhà nước vận hành vẫn còn nhiều bất cập, bộ máy nhà nước vẫn cồng kềnh, chồng chéo chức năng, không quy được trách nhiệm khi xảy ra sai sót, trình độ, phẩm chất đội ngũ cán bộ công chức chưa cao... Vì vậy, để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, cần thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành vi xâm phạm lợi ích quốc gia.  Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước để bảo đảm Nhà nước hoạt động do dân, vì dân, đúng định hướng XHCN. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực; kiên quyết đấu tranh và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng.

Sự phát triển đất nước trước hết dựa vào sức mạnh của nhân dân, nhưng hạt nhân phải là giới tinh hoa. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, muốn đất nước phát triển phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có đức, có tài, tuân thủ pháp luật, không tham nhũng và biết đề ra các biện pháp chống quan liêu, tham nhũng có hiệu quả. Muốn có người tài giúp nước, phải mở rộng dân chủ, tạo môi trường, cơ hội cho mọi cá nhân thể hiện khả năng và cống hiến. Dân chủ giúp khai thác tối đa khả năng đóng góp của mọi công dân, vì thế là yếu tố quan trọng sống còn để phát triển.

Xây dựng nền dân chủ XHCN với mô hình liên kết, hợp tác giữa các trụ cột của xã hội: tổ chức Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội; các tổ chức doanh nghiệp. Hiệu quả của mô hình này phụ thuộc vào sự liên hệ, trao đổi giữa các tổ chức về các vấn đề đặt ra của đất nước, từ đó nhận thức được vai trò, trách nhiệm và cách giải quyết trong hệ thống, tạo sức mạnh tổng hợp của dân tộc, sự thống nhất của hệ thống chính trị, tạo môi trường ổn định để phát triển.

3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực của phát triển

Tính chất tiên tiến của nền văn hoá thể hiện cả trong nội dung tư tưởng, cả trong hình thức biểu hiện và phương tiện chuyển tải nội dung. Còn bản sắc dân tộc đậm đà thì bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.

Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc còn là sự mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại, kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Chỉ có một nền văn hoá như thế mới có thể đóng vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển.

Là mục tiêu của phát triển, văn hoá thể hiện trình độ “nhân bản hoá” ngày càng đầy đủ, ngày càng toàn diện của con người, khiến cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng ngày một tiến bộ, ngày một văn minh hơn. Là động lực của phát triển, văn hoá giải phóng và nhân lên tiềm năng sáng tạo vô tận của nguồn lực con người, từ đó có thể khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, đồng thời tiếp thu và sử dụng có hiệu quả cao nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Trên thế giới ngày nay, phần lớn các lý thuyết phát triển xem nguồn gốc của sự giàu có không chỉ là sự dồi dào của tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật, mà yếu tố ngày càng quan trọng và quyết định là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng tạo này lại nằm trong văn hoá, nghĩa là trong tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, giá trị, niềm tin, lối sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Như vậy, tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất chính là con người. “Con người Việt Nam là kết tinh của nền văn hoá Việt Nam. Vì vậy, quá trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hoá xã hội chủ nghĩa của chúng ta”(1). Do đó, nhiệm vụ trọng tâm của nền văn hoá ở nước ta hiện nay là xây dựng con người Việt Nam thấm nhuần những giá trị và chuẩn mực văn hoá mới phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước; làm cho nhân dân thế giới hiểu biết đất nước, lịch sử, con người Việt Nam nhiều hơn, qua đó góp phần thực hiện phương châm “đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế” của nước ta vì hoà bình, độc lập và phát triển.

Để đạt được mục đích trên, cầnphát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội để phát triển văn hóa, xã hội. Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội. Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.  Bảo đảm quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.  

4. Xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, nâng cao chất lượng giáo dục, khoa học - công nghệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; con người có điều kiện phát triển toàn diện

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển xã hội nhằm giải quyết hài hoà các mối quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Trước hết cần có những chính sách phát triển xã hội mà đối tượng hướng tới là toàn thể nhân dân, trong đó chính sách lao động và việc làm cần ưu tiên giải quyết. Chính sách xoá đói giảm nghèo là một hệ thống chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các nguyên nhân của đói nghèo. Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra “mạng lưới an toàn” gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho những người về hưu, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người gặp rủi ro bất hạnh và đặc biệt là những người có công với nước. Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội có tác dụng cảm hoá những người lầm lỗi, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng.

Thực hiện tốt hệ thống chính sách phát triển xã hội ngày càng hoàn chỉnh chính là nhằm phát huy cao độ nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH đất nước trên cơ sở bảo đảm bình đẳng và công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp hài hoà lợi ích giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.

Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt.

Phát triển khoa học - công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Hướng trọng tâm hoạt động khoa học - công nghệ vào phục vụ CNH, HĐH, phát triển theo chiều sâu, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học - công nghệ. Tăng nhanh năng lực khoa học - công nghệ có trọng tâm, trọng điểm. Phát triển đồng bộ và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học - công nghệ. Phát triển mạnh thị trường khoa học - công nghệ. 

Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Tập trung phát triển mạnh hệ thống chăm sóc sức khoẻ và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển nhanh hệ thống y tế công lập và ngoài công lập; hoàn chỉnh mô hình tổ chức và củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Nâng cao năng lực của trạm y tế xã, hoàn thành xây dựng bệnh viện tuyến huyện, nâng cấp bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến Trung ương.  Khuyến khích các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế thành lập các cơ sở y tế chuyên khoa có chất lượng cao. Khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện tuyến Trung ương và tuyến tỉnh. Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam.

Như vậy, trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, thực tiễn phát triển đất nước, đồng thời tiếp thu, kế thừa những lý thuyết, mô hình phát triển trên thế giới, và xác định xu thế phát triển của thời đại, mô hình phát triển Việt Nam đang dần được xác lập, phù hợp với những đặc trưng đất nước: quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế thấp kém, chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Quan điểm nhất quán của Đảng ta là: đổi mới đồng bộ kinh tế và chính trị, phát triển kinh tế phải đồng thời gắn với công bằng xã hội, với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội. Mục tiêu của mô hình phát triển đất nước ta là: kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định, văn hóa tiên tiến, xã hội công bằng. Để đạt mục tiêu đó, chúng ta đã xác định rõ hướng phát triển trên các lĩnh vực: kinh tế thị trường định hướng XHCN; Nhà nước pháp quyền XHCN; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

___________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2015

(1) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.11.

 

PGS,TS Lưu Văn An

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền