Trang chủ    Thực tiễn    Vấn đề phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam hiện nay
Thứ tư, 16 Tháng 3 2016 16:06
23669 Lượt xem

Vấn đề phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam hiện nay

(LLCT) - Phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia.Tính bền vững về kinh tế được thể hiện trên các khía cạnh: sự gia tăng quy mô kinh tế, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và bình đẳng về cơ hội tham gia cũng như hưởng thụ thành quả phát triển của mọi người. Những năm  qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế nhất định. Tuy nhiên, xét dưới góc độ phát triển kinh tế bền vững thì còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Do vậy, cần có những giải pháp phát triển bền vững kinh tế trong những năm tới. 

1.Thực trạng phát triển bền vững về kinh tế

Về tốc độ tăng trưởng

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua tương đối cao nhưng thiếu bền vững, điều này được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng qua từng năm và từng thời kỳ. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng bình quân đạt 7,5%/năm; giai đoạn 2006 -2010 giảm xuống còn 6,9%/năm; năm 2011 đạt 6,24%, năm 2012 đạt 5,25%, năm 2013 đạt 5,5%, năm 2014 tăng trưởng đạt trên 6% và 6 tháng đầu năm 2015 đạt 6,22%. Số liệu này cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng giảm. Nhìn chung, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế có mức tăng, song cũng chưa thực sự bền vững.

Về năng lực cạnh tranh

Kinh tế tăng trưởng cao trong một thời gian dài nên quy mô của nền kinh tế tăng lên rõ rệt, điều này đã làm cho vị thế kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc giacòn thấp và chậm được cải thiện. Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (Global Competitiveness Index) của nước ta liên tục giảm. Cụ thể, thứ hạng của Việt Nam như sau: hạng 61 năm 2004-2005; hạng 64 năm 2006-2007; hạng 68 năm 2007-2008; hạng 70 năm 2008-2009 và hạng 75 năm 2009-2010. Không những tụt hạng theo thời gian, tức là năng lực cạnh tranh tổng thể của Việt Nam chậm được cải thiện so với các quốc gia khác trên thế giới, mà chúng ta còn chậm tiến bộ so với chính bản thân chúng ta.

Về cơ cấu các thành phần kinh tế

Cơ cấu các thành phần kinh tế của Việt Nam có sự thay đổi tích cực. Các thành phần kinh tế đã chuyển dịch theo hướng từ độc tôn khu vực kinh tế nhà nước, đến nay đã có đầy đủ các thành phần kinh tế hoạt động cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ và tạo động lực cho nhau để phát triển. Các thành phần kinh tế đã phát huy tiềm năng, thế mạnh để phát triển. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (riêng khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên 30% GDP năm 2013); khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng, chiếm khoảng trên 20% GDP, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua.

Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ dần trong GDP: chiếm 40,28% GDP vào năm 1995, năm 2000 chiếm 38,52% GDP, năm 2005 là 38,40% và năm 2010 là 33,74% và chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt, tập trung vào những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

Sự phát triển tích cực của các thành phần kinh tế thời gian qua đã góp phần tạo nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, sự yếu kém về trình độ công nghệ, quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, khả năng tích tụ vốn và huy động vốn thấp, trình độ và kỹ năng quản lý yếu nên năng lực cạnh trạnh của các thành phần kinh tế không cao, dẫn đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam rất thấp.

Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường đi liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùng lãnh thổ. Gắn khai thác, phân phối, sử dụng các nguồn lực và quá trình sản xuất với thị trường. Xu hướng chung là công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ tăng nhanh và nền kinh tế từng bước được hiện đại hóa.

Trong điều kiện điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội, kỹ thuật, vốn đầu tư phát triển ít ỏi và bắt đầu từ cơ sở kinh tế tự túc, tự cấp là chính, đạt được sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế như trên là một thành công lớn, giúp Việt Nam nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển. Tuy vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ trọng nông - lâm - thủy sản còn chiếm tới 22,02%. Về cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế của một nước nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ kém phát triển, đặc biệt là ngành dịch vụ trong suốt hơn 10 năm qua hầu như không thay đổi. Nếu phân tích sâu hơn về sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành kinh tế thì có thể thấy rằng, chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng những mặt hàng, những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh cao, có hàm lượng chất xám cao... còn diễn ra rất chậm.

Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp, chậm được cải thiện và ngày càng có xu hướng giảm sút

Hệ số ICOR của nền kinh tế ngày càng cao: Thời kỳ 1996 - 2000 bình quân là 4,7; thời kỳ 2001 - 2005 là 5,2;  thời kỳ 2006 - 2010 là 6,1; năm 2010 là  6,2; năm 2011 là 6,2 và năm 2012 là 6,7. Đóng góp của yếu tố lao động đã nhỏ nhưng lại có xu hướng giảm là bất hợp lý đối với một nước có tiềm năng về số lượng lao động và giá rẻ. Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1990 - 2000 là 22%, thời kỳ 2001 - 2010 giảm xuống 19%. Điều này phản ánh những bất cập sau: chưa tận dụng hết lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế; chất lượng lao động thấp, năng suất lao động xã hội không cao.

Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế nhỏ và có xu hướng giảm sút: thời kỳ 1990 - 2000 là 44%, giảm xuống còn 26% thời kỳ 2001 - 2010. Điều này phản ánh tính chất lạc hậu về công nghệ kỹ thuật và hiệu quả của tăng trưởng ngày càng thấp. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng thấp là do: hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm thấp; trình độ công nghệ của các ngành kinh tế thấp; hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu quả và công tác nghiên cứu và triển khai (R&D) trong nước còn nhiều hạn chế.

Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước không cao; cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả

Đáng chú ý là khu vực quốc doanh chiếm một lượng vốn rất lớn, song đầu tư rất kém hiệu quả, thể hiện ở các chỉ số ICOR, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, vấn đề giải quyết việc làm... điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động mà còn làm hạn chế sự năng động của nền kinh tế.

Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP hiện còn chiếm trên 22%, tỷ trọng của dịch vụ chỉ chiếm chưa đầy 39% và hầu như không thay đổi trong 10 năm gần đây; tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm từ 42% - 43% GDP. Trình độ công nghệ của các ngành công nghiệp lạc hậu và chậm đổi; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa tối ưu và đồng đều, chưa phát huy lợi thế trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm; vẫn còn nhiều ngành tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn nhiều yếu kém; môi trường và tài nguyên thiên nhiên đang bị suy thoái nhanh chóng dưới áp lực tăng trưởng nhanh

Phát triển đô thị, đặc biệt là phát triển nông thôn còn thiếu quy hoạch và tự phát, hoặc có quy hoạch nhưng quản lý kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Môi trường thành thị và nhiều vùng nông thôn ngày càng bị ô nhiễm do chất thải sinh hoạt, chăn nuôi và nông dược... Những điều đó dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam và năng lực cạnh tranh của sản phẩm đều hết sức thấp kém.

Các vấn đề môi trường như ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, khai thác khoáng sản và quản lý chất thải rắn đang ngày càng nghiêm trọng.

Kinh tế vĩ mô thiếu vững chắc và có những dấu hiệu bất ổn; thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp

Nợ công gia tăng, chiếm tỷ lệ lớn trong GDP. Hiện nợ công của Việt Nam chiếm trên 60% GDP. Thâm hụt ngân sách với tỷ lệ khá cao. Bội chi ngân sách hàng năm từ khoảng từ 3% - 6% GDP. Nguồn lực vốn cho tăng trưởng vẫn dựa quá nhiều vào nguồn lực bên ngoài, trong đó, vốn vay ODA chiếm tỷ trọng cao, gây nên gánh nặng nợ quốc gia ngày càng tăng và đe dọa sự ổn định tài chính trong tương lai. Hệ thống ngân hàng thương mại đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ xấu chưa được xử lý đang đe dọa đến an ninh tài chính quốc gia.

Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp, cùng với kết cấu hạ tầng thấp kém là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển.

Do đó, cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, nhận thức, mục tiêu phát triển bền vững và các giải pháp phải ngày càng mạnh mẽ hơn, triệt để hơn, hệ thống hơn.

2. Giải pháp phát triển bền vững kinh tế

Một là, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển nền kinh tế phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu

Tăng cường năng lực về khoa học công nghệtrong phát triển kinh tế,nhất là phát triển mạnh mẽ công tác R&Dtrong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tập trung vào phát triển các ngành, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hiện đại.Nghiên cứu và triển khai áp dụng mạnh mẽ mô hình tăng trưởng xanh. Đây là mô hình mà các quốc giaphát triểnđã và đang áp dụng.

Hai là, sử dụng tốtcác nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  bền vững

Giải phóng nguồn nhân lực, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và tạo động lực mới để nguồn nhân lực phát huy tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế.Nhà nước cần có các quyhoạch sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia một cách tốiưunhất,sử dụng hiệu quảnguồn lực vốn. Cải thiện môi trường kinh doanh và môi trường đầu tư nhằm khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh.Tạo môi trường, thể chế sản xuất - kinh doanh đồng bộ, lành mạnh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng thông thoáng, công khai, minh bạchđể thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Kiên quyết xử lý nghiêm tình trạng các địa phương, ngành dựng lênnhững rào cản (giấy phép con) trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Ba là,tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng

Trong nền kinh tế thị trường, công bằng về cơ hội cho mọi chủ thể trong nền kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng. Cơ chế, mô hình và cách thức can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại phải theo hướng tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, tức là phải tạo ra một môi trường để các chủ thể trong nền kinh tế cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, phải lấy thị trường làm căn cứ để phân bổ nguồn lực vốn có hiệu quả, hạn chế tới mức thấp nhất sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào nền kinh tế. Đảm bảo cho mọi chủ thể trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng, có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận nguồn lực vốn.

Bốn là, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi trường và đảm bảo công bằng xã hội

Việc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi trường và chính sách xã hội phải được tiến hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính sách kinh tế phải gắn với mục tiêu phát triển bền vững, công bằng xã hội và mỗi chính sách phát triển bền vững, chính sách xã hội phải dựa trên những cơ sở tiền đề vật chất của quá trình tăng trưởng kinh tế và đặc biệt nó phải tạo được động lực cho tăng trưởng kinh tế, thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững. Tránh tình trạng chính sách tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, xung đột với mục tiêu phát triển bền vững.

Theo đó, hệ thống chính sách kinh tế phải đổi mới theo hướng tạo mọi điều kiện huy động các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động. Đổi mới chính sách xã hội theo hướng đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện tốt hơn để người dân tiếp cận các dịch vụ thiết yếu, các nguồn lực, khuyến khích làm việc tăng thu nhập. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải thực sự là kênh để điều tiết thu nhập giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp, vùng, miền và giữa các bộ phận dân cư. Chính sách môi trường phải thực sự làm tăng trưởng kinh tế và thực hiện tốt mục tiêu phát triển bền vững về môi trường.

Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vữngcần tập trung vào các biện pháp: đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo,đổi mớinội dung giáo dục - đào tạo theo yêu cầu của thị trường lao động, nâng cấp trang thiết bị dạy học, học nghề,tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng với những tiêu chí chất lượng phù hợp, đào tạo người lao động có khả năng thích ứng tốt với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

______________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2015

 

ThS Mai Việt Dũng

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền